Nhà thờ Phát Diệm, hay Nhà thờ đá Phát Diệm, là một quần thể các nhà thờ Thiên Chúa giáo lớn tại xã Lưu Phương, thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, nằm cách Hà Nội khoảng 120 km về hướng Nam. Đây là một công trình lớn, được xây dựng bằng đá và gỗ. Nhà thờ Phát Diệm được khởi công vào năm 1875 và đến năm 1898 thì cơ bản hoàn thành. Nét độc đáo của công trình này là mặc dù là nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng nó mô phỏng theo những nét kiến trúc đình chùa truyền thống của Việt Nam.Nhà thờ được xây dựng với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19. Từ hướng Nam đi vào nhà thờ Phát Diệm gồm các phần: Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn, ba hang đá nhân tạo và nhà thờ đá.
Một hồ nước hình chữ nhật được kè đá xung quanh nằm trực diện với con đường từ thị trấn Phát Diệm dẫn vào nhà thờ. Giữa hồ là một hòn đảo trên đó có bức tượng chúa.Phương Ðình là là một công trình kiến trúc cao 25m, rộng 17m, dài 24m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa Phương Ðình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối, phía ngoài và bên trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa Jêsu và các vị thánh với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai của Phương Ðình treo một trống lớn. Tầng ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg, quả chuông lớn ở Phương Ðình được đúc vào năm 1890. Một tiếng chuông vang xa được ví như cả 3 tỉnh nghe thấy. Mái của nhà thờ Phát Diệm không cao vút kiểu ngọn tháp như những nhà thờ khác mà là mái cong thấp cổ kính như mái đình, mái chùa. Nhà thờ lớn có năm lối vào vòm đá được chạm trổ. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái. Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim nguyên khối, hai hàng cột giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 10 tấn. Gian thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Hai phía bên nhà thờ có bốn nhà thờ nhỏ được kiến trúc theo một phong cách riêng.Gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ này đều được làm bằng đá, từ nền, tường, cột, chấn song cửa... Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, mai, cúc, trúc, tượng trưng cho thời tiết và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Ðường nét khắc họa những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường.Các hang đá nhân tạo ở phía bắc khu nhà thờ Phát Diệm có 3 hang đá cách nhau khoảng 100m được tạo bằng những khối đá lớn nhỏ khác nhau giữ nguyên dáng vẻ tự nhiên. Trong đó, hang Lộ Ðức là đẹp nhất. Trên các hang đá đều có các tượng lớn.
Nằm thuộc thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, quần thể thánh đường Phát Diệm được xem là niềm tự hào của kiến trúc Việt Nam, là nơi mà ước mơ về sự giao hòa giữa những nền văn hóa, giữa tâm linh và đời sống thực của con người được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết.
Tọa lạc trên một diện tích khoảng 22ha, quần thể nhà thờ Phát Diệm hoàn hảo từ cách bài trí các khu kiến trúc đến hồ nước, sân thánh đường đều đăng đối, uy nghiêm mà vẫn rất hài hòa, hợp nhất.
Cổng chính nhà thờ hướng ra phía Nam, nơi khi bạn vừa bước chân vào đã bắt gặp một hồ nước phẳng như tấm gương soi, in bóng nhà thờ cùng những tàng cây trước sân tạo nên một cảnh quan tuyệt mỹ.
Qua khỏi hồ nước là đến khu Phương Đình với ba tầng xây bằng nguyên vật liệu chính là đá phiến theo lối kiến trúc phương Tây, nhưng mái vòm lại uốn lượn tinh xảo như mô phỏng của kiến trúc các mái đình làng, chùa chiền của làng quê Bắc bộ. Tiếp theo Phương Đình là Nhà thờ lớn với năm lối vào làm bằng đá chạm trổ công phu và mỹ thuật, cũng thể hiện sự giao hòa khéo léo của lối kiến trúc Đông Tây vừa trang nghiêm vừa tao nhã và uyển chuyển.
Nhưng linh hồn của quần thể Phát Diệm chính là Nhà thờ đá – Nhà thờ dâng kính trái tim Đức Mẹ, một khối kiến trúc độc đáo được xây dựng hoàn toàn bằng đá với những hoa văn công phu đặc sắc duy nhất ở Việt Nam. Bàn tay tài hoa của người kiến trúc sư đất Việt đã thổi hồn vào đá, đánh thức sự sống của đá để biến chúng thành một công trình tinh tế, tràn đầy xúc cảm lay động lòng người.
Đã hơn 100 năm tuổi, khu thánh đường Phát Diệm xứng đáng là đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam, là biểu trưng cho tinh thần nhân văn sâu sắc của người dân Việt trong sự hòa quyện tài tình của các nền văn hóa, của tinh thần cộng đồng cao quý sắc son.
Phát Diệm có nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, tên Phát Diệm do Nguyễn Công Trứ đặt. Nhà thờ đá được xây dựng trong suốt thời gian 24 năm liên tục. Với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của những năm cuối thế kỷ 19 thì chỉ việc vận chuyển hàng nghìn tấn đá, có những phiến nặng 20 tấn, hàng trăm cây gỗ lim về tới Phát Diệm để xây nhà thờ cũng là một kỳ công. Kim Sơn vốn là vùng đất mới khai khẩn, trước đây rất lầy lội. Để xử lý độ lún của khu đất trước khi xây dựng người ta đã chuyển cả một quả núi nhỏ cách 40 km về Phát Diệm. Khách về thăm nhà thờ còn thấy núi Sọ, đấy chính là một phần của trái núi đã được dân rời về Phát Diệm.
Ðây là một quần thể kiến trúc phương Ðông gồm có (từ hướng Nam đi vào): Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn với bốn Nhà thờ cạnh ở hai bên, ba hang đá nhân tạo, Nhà thờ đá.
Phương Ðình: là khu vực đầu tiên trong quy hoạch kiến trúc của nhà thờ Phát Diệm. Ðây là một công trình kiến trúc cao 25 m, rộng 17 m, dài 24 m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Nghệ thuật xây dựng Phương Ðình rất đáng khâm phục, với kỹ nghệ thủ công những người thợ địa phương đã ghép những phiến đá nặng hàng nghìn cân, mức độ chính xác rất cao. Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa Phương Ðình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối, phía ngoài và bên trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa Jesu và các vị thánh rất đẹp với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai của Phương Ðình treo một trống lớn. Tầng ba treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg, quả chuông lớn ở Phương Ðình được đúc vào năm 1890. Mái của Phương Ðình có năm vòm, bốn vòm ở bốn góc thấp hơn, vòm cao nhất là vòm ở giữa tầng ba. Mái của Phương Ðình ở nhà thờ đá Phát Diệm không cao vút kiểu ngọn tháp như những nhà thờ khác mà là mái cong thấp cổ kính như mái đình, mái chùa.
Nhà thờ lớn: Nhà thờ lớn là nhà thờ chính được xây dựng năm 1891, có năm lối vào vòm đá được chạm trổ. Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái. Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim nguyên khối, hai hàng cột giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 10 tấn. Gian thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Hai phía bên nhà thờ có bốn nhà thờ nhỏ được kiến trúc theo một phong cách riêng.
Nhà thờ đá: nhà thờ đá còn được gọi là nhà thờ dâng kính trái tim Ðức Mẹ. Gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ này đều được làm bằng đá, từ nền, tường, cột, chấn song cửa... Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc biệt là bức chạm tứ quý: tùng, mai, cúc, trúc, tượng trưng cho thời tiết và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Ðường nét khắc họa những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường.
Hang đá nhân tạo: ở phía bắc khu nhà thờ đá Phát Diệm có 3 hang đá được tạo bằng những khối đá lớn nhỏ khác nhau giữ nguyên dáng vẻ tự nhiên. Trong đó, hang Lộ Ðức là đẹp nhất.
Nhà thờ đá Phát Diệm, một công trình kiến trúc độc đáo có một không hai ở Việt Nam. Các công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ nhưng hài hòa với cảnh vật thiên nhiên, mang đậm phong cách kiến trúc Á Đông.
Các Dữ Liệu Giúp Phân Tích Các Công Trình
Trong Quần Thể Thánh Ðường Phát Diệm
I. Những Thành Phần Kiến Trúc Và Biểu Tượng Chính Yếu
Trong Thánh Ðường Và Nguyện Ðường Công Giáo:
1. Thánh Ðường (Église):
Về mặt chức năng, Thánh Ðường là nơi cộng đoàn Dân Chúa tụ họp để cử hành các lễ nghi Phụng Vụ. Ở Việt-nam, hầu hết các Thánh Ðường vào cuối thế kỷ 19 đều xây dựng theo phong cách phương Tây, chọn hình chữ nhật hoặc chữ thập trong thiết kế mặt bằng.
Theo Tự Ðiển Văn Hóa Công Giáo, mặt bằng điển hình một Thánh Ðường gồm có:
- Chevet: Mặt ngoài gian giữa Nhà Thờ
- Abside: Hậu cung.
- Absidiole: Tiểu hậu cung.
- Déambulatoire: Hành lang quanh Cung Thánh.
- Choeur: Cung Thánh.
- Autel: Bàn Thờ.
- Transept: Cánh ngang tạo thành hình Thánh Giá.
- Vaisseau central: Gian chính.
- Collatéral: Hai gian phụ nằm dọc theo gian chính.
- Nef: Lòng Nhà Thờ.
- Narthex: Chái Kiệu ngay lối vào chính của Nhà Thờ.
Xét về phương hướng xây dựng, đế quốc Rô-ma vốn dĩ thờ thần Mặt Trời, đến khi Ki-tô giáo không còn bị bách hại nữa và được chọn làm quốc giáo, người ta cũng muốn "thanh tẩy" cho các lễ nghi tín ngưỡng Rô-ma bằng nguyên tắc chọn mặt chính Bàn Thờ, cũng là một chính của Thánh Ðường (facade) sẽ nhìn về hướng Ðông vì Ðức Giê-su Ki-tô được mệnh danh là Vằng "Thái Dương", là "Mặt Trời Hừng Ðông", hướng về phía Ðông tức là quy phục Ðức Giê-su Ki-tô. Ngoài ra, những khu vực cao ráo, tạo được điểm nhấn thị giác và thu hút tầm nhìn thường là những nơi được chọn để xây dựng công trình.
Có 3 hoặc 5 lối vào từ một chính. Vị trí này cũng được kết hợp để xây dựng tháp chuông, đầu tháp có thể được thiết kế thêm mái chóp nhọn với đỉnh cao vút kết thúc bằng một cây Thánh Giá. Mặt đứng chính thường được trang trí bằng các đường gờ, đường chỉ hoặc phù điêu các Thánh, đặc biệt là Thánh Bổn Mạng của Giáo Xứ. Sau này, mặt đứng chính còn được lắp một đồng hồ thật lớn.
Qua lối vào chính, một số Thánh Ðường có bố trí một sảnh đệm trước khi vào cửa Nhà Thờ, được gọi là chái Kiệu, được xem như một không gian chuyển tiếp, có đặt các bình nước phép để giáo dân có thể dọn mình trước khi vào Nhà Chúa.
Nội thất công trình chia làm 3 phần rõ rệt:
- Phần dành cho giáo dân (Lòng Nhà Thờ)
- Phần Cung Thánh (gian Thánh)
- Phần dành cho ca đoàn (gác hát và đàn).
Phần dành cho giáo dân chiếm đa phần diện tích toàn Nhà Thờ, bao gồm một tiền sảnh ngay cửa vào chính và khu vực cho giáo dân đứng (sau này mới đặt ghế ngồi) tham dự Thánh Lễ. Tiền sảnh thường được dành một góc nhỏ để đặt Tòa Giải Tội và Giếng Thanh Tẩy. Tính đến thế kỷ 19, kỹ thuật khuyếch đại âm thanh bán dẫn và điện tử chưa có, nên để giúp cộng đoàn nghe được các giáo huấn Tin Mừng, Linh Mục phải đứng trên giảng đài đặt ở giữa lòng Nhà Thờ.
Về mặt hình tượng, theo truyền thống của Giáo Hội, trên tường hoặc trên cột hai bên lòng Nhà Thờ đều có treo 14 ảnh vẽ hoặc bức điêu khắc diễn tả 14 chặng đàng Thương Khó Chúa Giê-su, mỗi bên 7 bức, bức thứ nhất được treo sát Cung Thánh phía bên trái nếu nhìn từ cửa chính vào, và đối xứng ở bên phải là bức thứ mười bốn.
Phần Cung Thánh, tuy chiếm diện tích nhỏ, nhưng lại là phần trọng yếu nên được bố trí cao hơn hẳn, ngăn cách với phần của giáo dân bằng một dãy "câu lơn", khi lên Rước lễ, giáo dân có thể quỳ phía trước và tỳ tay lên dãy hàng rào này.
Cung Thánh là phần dành riêng cho Ðức Giám Mục, các Linh Mục và các Phó Tế (gọi chung là hàng giáo sĩ) cử hành Thánh Lễ. Bàn Thờ (Autel) là trung tâm của Cung Thánh. Phía trước Bàn Thờ là Nhà Tạm (Tabernacle), nơi lưu giữ Thánh Thể, luôn được thắp sáng bằng hai ngọn nến chân cao mang ý nghĩa luôn túc trực chầu Thánh Thể. Ngoài ra trên Cung Thánh còn đặt Nến Phục Sinh chỉ thắp sáng trong Thánh Lễ. Vì là điểm hội tụ mọi tầm nhìn từ phía cộng đoàn, đồng thời thể hiện sự tôn vinh Thiên Chúa, Cung Thánh được đặc biệt chú trọng trang trí huy hoàng lộng lẫy. Phông nền phía sau Nhà Tạm được chạm khắc công phu và hoành tráng hình các Thánh, Ðức Mẹ, tượng Chúa Giê-su treo trên Thánh Giá...
Ở các Thánh Ðường lớn được chọn làm Nhà Thờ Chính Tòa (Cathédrale), Giáo Hội có thông lệ an táng thi hài các các vị Giám Mục bản quyền ngay trên Cung Thánh. Ngai của Ðức Giám Mục (Cathèdre) được trang hoàng cùng với phù hiệu Giám Mục của ngài. Các gian nhỏ xung quanh Cung Thánh được gọi là Phòng Thánh, nơi các vị chủ sự và đồng tế thay áo trước và sau khi cử hành các lễ nghi Phụng Vụ, đồng thời cũng để cất giữ các vật dụng tế tự.
Phần dành cho ca đoàn thường được bố trí trên một gác lửng phía trên tiền sảnh lòng Nhà Thờ. Nơi đây có các bậc cấp để ca viên đứng và có chỗ cho các nhạc công và nhạc cụ. Các Thánh Ðường lớn sử dụng loại Ðại Phong Cầm (Grand Orgue) hoặc Phong Cầm (Orgue). Các Thánh Ðường nhỏ hơn ở các Giáo Xứ thì không có gác đàn, ca đoàn được dành một khoảng diện tích ngay phía sau Cung Thánh, nhạc cụ thường là loại đàn Harmonium...
2. Nguyện Ðường (Chapelle):
Nguyện Ðường là nơi thờ tự của một Họ Ðạo (Nhiều Họ Ðạo mới lập thành một Giáo Xứ), nên thường được gọi là Nhà Thờ Họ. Ðây là nơi hội họp và cầu nguyện của giáo dân trong Họ. Nhà Thờ Họ được phép lưu giữ Thánh Thể. Vào dịp Thánh Bổn Mạng Họ hoặc dịp trong Họ có sự kiện tôn giáo trọng đại thì Thánh Lễ mới được cử hành tại Nhà Thờ Họ.
Một hình thức Nguyện Ðường khác là Nhà Nguyện của các Dòng Tu Nam, Nữ, các Ðan Viện, các Tiểu và Ðại Chủng Viện và các Tòa Giám Mục.
Do có quy mô không lớn nên các Nguyện Ðường thường không xây tháp chuông, cũng không có gác đàn. Gian Cung Thánh vẫn luôn cao hơn khu vực giáo dân. Các tượng ảnh được giản lược, chỉ bài trí chính yếu là tượng ảnh Chúa Giê-su, Ðức Mẹ, Thánh Giu-se và Thánh Bổn Mạng của Họ.
II. Ý Tưởng Của Cha Trần Lục Về Việc Xây Dựng
Ảnh: Trung Kiên |
Quần Thể Thánh Ðường Phát Diệm:
Trước khi đi sâu nghiên cứu và phân tích những ý tưởng thiết kế và những nội dung tư tưởng mà tác giả đã gửi gắm vào công trình, chúng ta hãy cùng lược qua đôi nét tiểu sử của Cha Trần Lục, con người đã ghi dấu ấn kỳ diệu độc nhất vô nhị trong lịch sử kiến trúc Thánh Ðường của Việt-nam.
1. Sơ lược tiểu sử Cha Trần Lục:
Cha Trần Lục sinh năm 1825 tại làng Mỹ-quan, tổng Cao-vĩnh, huyện Nga-sơn, tỉnh Thanh-hóa. Ngài tên thật là Phê-rô Trần Văn Hữu. Năm 15 tuổi, ngài theo ở giúp cho cha Tiếu, xứ Bạch-bát. Ðến năm 1845 thì ngài lên đường vào tu tại Chủng Viện Vĩnh-trị (sau chuyển về Hoàng Nguyên), từ đây ngài đổi tên thành Triêm. Năm 1850, ngài bắt đầu đi thực tập mục vụ truyền giáo.
Năm 1855, ngài về học Triết Học và Thần Học ở Kẻ Non. Hai năm sau thì vua Tự Ðức bắt đầu những cuộc bách đạo, ngài bị bắt đi đày ở Lạng-sơn. Chính tại đây, thầy Triêm được nhận sứ vụ Phó Tế, tức là chức Sáu, do vậy những người giáo dân cùng đi đày quen gọi ngài là Cụ Sáu. Có lẽ cũng chính vì thế mà sau này, vào năm 1979, vua Tự Ðức sẽ cải tên ngài là Trần Lục chăng?
Năm 1862, sau khi vua Tự Ðức tha đạo, Cha Trần Lục được trả lại tự do, về coi sóc ba xứ Mỹ-diệm, Kẻ Dừa và Tam-tổng. Rồi từ năm 1865 đến năm 1899, ngài về làm cha sở Phát-diệm.
Trong lịch sử Giáo Hội Việt-nam, Cha Trần Lục có lẽ là vị Linh Mục duy nhất sống được hài hòa cả hai trách vụ đời và đạo một cách xuất sắc. Vừa là giáo sĩ, ngài lại còn là Trấp An dưới triều vua Tự Ðức, là Gia Lễ Bộ Tham Tri, sung Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ dưới triều vua Ðồng Khánh, là Lễ Bộ Thượng Thư dưới triều vua Thành Thái, là Phát-diệm Nam Tước của vua Khải Ðịnh, được tặng Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh năm 1884, rồi Tứ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh năm 1899.
Ngày 7 tháng 7 năm 1899, Cha Trần Lục qua đời, hưởng thọ 74 tuổi, sau 34 năm phụng sự tận tụy cho Giáo Hội nói chung và xứ Phát-diệm nói riêng.
2. Ý tưởng xây dựng quần thể Thánh Ðường Phát-diệm:
Chúng ta sẽ không thể hiểu hết được ý tưởng xuất chúng của Cha Trần Lục nếu việc nghiên cứu chúng ta đang làm lại tách rời quá trình truyền giáo khỏi bối cảnh lịch sử và văn hóa Việt-nam đương thời. Vì thế, thật là cần thiết phải tìm hiểu những quan điểm truyền giáo của các vị thừa sai ngoại quốc đã đến Việt-nam, những xung đột xuất phát từ cuộc gặp gỡ giữa Công Giáo và truyền thống tín ngưỡng Việt-nam.
Ở Việt-nam, tam giáo Phật - Lão - Nho đã bám rễ sâu vào nền tảng văn hóa dân tộc từ rất lâu đời. Các tôn giáo và tín ngưỡng này đã thấm nhập vào mọi tầng lớp xã hội mạnh mẽ đến độ chúng ta không thể tách rời "văn hóa tâm linh" ra khỏi môi trường văn hóa truyền thống Việt-nam. Những niềm tin tôn giáo đã chuyển hóa thành phong tục, tập quán, cách nghĩ suy và ứng xử... Cứ thế mà lưu truyền tiếp nối qua bao thế hệ. Chính vì vậy, trong những thời kỳ đầu của việc truyền giáo, đã có không ít những xung đột gay gắt xung quanh những vấn đề phụng tự giữa tín ngưỡng truyền thống Việt-nam và tín ngưỡng phương Tây.
Việc thờ cúng tổ tiên, dự giỗ chạp, ra đình làng để dự lễ Cầu Mùa... tất cả đều bị xem là đồng nghĩa với "mê tín dị đoan". Các tượng thần tượng Phật đều bị xếp vào loại "ngẫu tượng". Các kiến trúc theo phương vị nằm ngang của đình, chùa, đền... đều bị đánh giá "hình dạng của ma quỷ". Những quan điểm này từng là trở lực cho việc phát triển và hội nhập của Công Giáo trong cộng đồng dân tộc Việt-nam.
Về vấn đề này, để xóa mờ ký ức lịch sử không hay ấy, một giai đoạn quá khích, không khoan nhượng, Giáo Hội Công Giáo trong thời kỳ trước Cha Trần Lục khá lâu, đã có một quan điểm ứng xử mới, giúp cho người bản xứ, không chỉ riêng tại Việt-nam mà cả ở khắp nơi trên thế giới, hiểu được rằng: "Công Giáo chỉ mang Ðức Tin đến cho họ. Ðức Tin này không loại trừ, không làm tổn thương đến nghi lễ và các phong tục tập quán của dân tộc".
Hình ảnh mái đình, ngôi chùa đã bén rễ sâu vào tâm thức người Việt. Ðó là nơi diễn ra biết bao lễ hội và tập tục vốn dĩ đã gắn chặt mỗi cá nhân vào cộng đồng xã hội. Những kiến trúc đó đã trở thành biểu tượng của bình an, của sự che chở, của đạo đức, thuần phong mỹ tục, không thể xóa nhòa trong tiềm thức con người.
Ðể không phủ nhận những giá trị mà người Việt-nam hằng ấp ủ, đồng thời để khoảng cách xa lạ giữa các tín ngưỡng khác nhau trong những giai đoạn đầu có thể lui vào quá khứ, Cha Trần Lục đã dự kiến làm tái hiện những biểu tượng truyền thống tốt đẹp, mà ở đó, các tín hữu Công Giáo vẫn có thể tôn thờ Thiên Chúa bằng tâm thức của người Việt-nam, vẫn tôn trọng và gìn giữ những phong tục tập quán với tư cách là những di sản quý giá mà cha ông để lại.
Ý tưởng sẽ xây dựng cho giáo dân Phát-diệm một kiến trúc Thánh Ðường mang phong cách Á Ðông, có dáng dấp như đình, chùa, đã được hình thành. Chúng ta có thể xem đây là một thông điệp mà Cha Trần Lục muốn tỏ bày ý nghĩa đích thật của Ki-tô giáo. Theo Karl Jung, một nhà tâm lý học nổi tiếng, con người chỉ nhận thức bằng lý trí từ 5% đến 10%, còn 90% là do tiềm thức và biểu tượng chi phối. Cha Trần Lục đã có những ý tưởng trùng hợp với nhận xét này.
Cha còn mang ý tưởng vận dụng vào kiến trúc địa phương những đường nét kiến trúc Thánh Ðường phương Tây để góp phần làm phong phú hóa cũng như nâng cao tầm giá trị của nền kiến trúc cổ truyền dân gian, đồng thời tích hợp ở đây những hình tượng Phụng Vụ, vốn được xem như những ký hiệu truyền thống không thể bị loại rừ của Thiên Chúa Giáo. Thành quả này sẽ là một minh chứng hùng hồn và sống động, dự báo cho một tiến trình tốt đẹp của công cuộc hội nhập văn hóa phương Tây vào Việt-nam, điều mà bản thân ngài cũng như Giáo Hội hằng mong mỏi.
III. Việc Chuẩn Bị Cho Công Cuộc Xây Dựng
Quần Thể Thánh Ðường Phát Diệm:
Cha Trần Lục đã nuôi hoài bão xây dựng quần thể Thánh Ðường Phát-diệm từ năm 1866, một năm sau khi ngài chính thức được điều về coi sóc xứ Phát-diệm. Lúc đó, đời sống người dân ở Phát-diệm hãy còn hết sức khó khăn, giáo dân thưa thớt... Ðể chuẩn bị cho công cuộc xây dựng, ngài đã phải vượt qua nhiều thử thách để tích lũy thêm kinh nghiệm, từng chút một đầu tư cho nguồn nhân lực và vật lực để chuẩn bị cho việc kiến thiết lớn lao và lâu dài sau này.
1. Di tích tiền thân của quần thể Thánh Ðường Phát-diệm:
Trong một bài viết của ông Hương Giang Thái Văn Kiểm được đăng trong Kỷ Yếu Phát-diệm có câu: "Trước khi xây dựng Nhà Thờ Phát-diệm năm 1871, Cha Sáu đã bắt đầu xây dựng một Nguyện Ðường". Linh Mục Trần Công Hoán cũng đã có những lời tường thuật tương tự với nội dung vừa nêu. Tuy vậy, hiện nay trong khuôn viên của quần thể không thấy còn vết tích nào về ngôi Nguyện Ðường này. Sau nhiều đợt khảo cứu, chúng tôi đã gặp được một số vị cao niên hướng dẫn về Phát-thượng, nơi còn lưu lại những di tích của công trình này.
Theo lời kể, vào năm 1871, Cha Trần Lục đã xây dựng một Nguyện Ðường tọa lạc tại vị trí của Nhà Thờ Chính Tòa hiện nay. Năm 1885, Nguyện Ðường này được dỡ xuống và di dời về họ Phát-thượng cách đó 500 mét, sau đó được xây dựng lại và lấy tên là Nhà Thờ Họ Phát-thượng, nhận Thánh Xi-mong (Si-môn Tông Ðồ) làm Bổn Mạng.
Nhà Thờ có kích thước: dài 26m, rộng 13m, cao 6m. Lòng Nhà Thờ chiếm 3 gian rộng. Cung Thánh được dành một gian, tiếp sau là Phòng Thánh. Hệ khung chịu lực chính là kết cấu gỗ, vì kèo giá chiêng rất phổ biến đối với kiến trúc Bắc bộ, nhiều chi tiết hoa lá sắc xảo được chạm khắc trên vì kèo, cột thì để trơn. Ánh sáng và sự thông thoáng được đặc biệt chú trọng. Lòng Nhà Thờ trổ nhiều cửa dọc hai bên. Hầu hết tất cả những trang trí công phu đều được tập trung ở Cung Thánh. Toàn bộ hệ kết cấu gỗ được sơn son thếp vàng, không gian được xử lý tạo cảm giác mở rộng nhờ bức phông ảnh Thánh che lấp cột cái. Trần được đóng gỗ, sơn xanh mô phỏng bầu trời. Nhà Tạm, với đường nét chạm trổ tinh vi, cùng với tượng Thánh Bổn Mạng là hai điểm trọng tâm trên khu vực Bàn Thờ.
Nhà Thờ Họ Phát-thượng, trong chừng mực nào đó, đã lưu lại những vết tích ngôi Nguyện Ðường mà Cha Trần Lục đã xây dựng năm 1871 như là tiền thân của quần thể Thánh Ðường Phát-diệm. Có thể đây là bước thể nghiệm ban đầu nhằm chuẩn bị cho công cuộc xây dựng với quy mô lớn hơn sau này.
2. Hang Ðá Bê-lem:
Sau khi xây dựng Nguyện Ðường, để thử sức chịu tải của nền đất, Cha Trần Lục đã cho xây Hang Ðá Bê-lem vào năm 1875. Bia đá có ghi lại: "Tháng giêng năm Ất Hợi, niên hiệu Tự Ðức thứ 28".
Hiện nay, Hang Ðá nằm phía sau Nhà Thờ Chính Tòa, chếch về hướng Bắc Tây Bắc. Trước đây công trình được gọi là Hang Táng Xác, vì vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, giáo dân có thông lệ mô phỏng lại việc Chúa Giê-su bị đóng đinh trên Thánh Giá và sau đó được táng xác vào hang đá. Sau năm 1954, giáo dân ở đây đã thỉnh tượng Chúa Giáng Sinh đem đặt vào hang nên cải tên là Hang Ðá Bê-lem.
Hang Ðá cao 12m, chiếm diện tích khoảng 100m vuông, có tường rào xây gạch thông, tráng men xanh của làng Bát-tràng. Cổng vào được chạm khắc từ những phiến đá hoa cương lớn, tạo dáng theo bộ mái ngói cổ truyền, hai bên là trụ biểu được trang trí hoa sen ở đầu trụ. Phía trước hang là một hồ nước rộng hình bán nguyệt với một cầu đá bắc giang, làm lối dẫn vào trong.
3. Việc chuẩn bị vật tư:
Một trong những khó khăn lớn nhất, diễn ra trong suốt quá trình xây dựng, đó là công tác chuẩn bị vật tư. Thậm chí, có những hạng mục xây dựng đòi hỏi phải tập trung vật tư từ 10 năm trước. Ngoài ra, còn có một khó khăn lớn khác, đó là vấn đề lo liệu tài chính.
Ở giai đoạn này, Cha Trần Lục không nhận bất kỳ một nguồn tài trợ nào từ phía Giáo Hội, triều đình Huế và thực dân Pháp. Vì vậy, mọi nỗ lực đều chỉ dựa vào sức giáo dân địa phương mà thôi.
Như đã giới thiệu trong đoạn viết về lịch sử hình thành huyện Kim-sơn, đây là vùng đất do phù sa bồi đắp, nhiều sình lầy, nền đất yếu, vật liệu xây dựng khai thác được tại chỗ chủ yếu là lau, sậy, luồng... Do đó, toàn bộ vật tư phải được mua hoặc khai thác từ những địa điểm rất xa xôi, phương tiện vận chuyển hết sức hạn chế. Một số vật tư như gỗ lim phải mua từ Hồi-xuân, Thanh-hóa, hoặc ở Bến-thủy, Nghệ-an cách xa đến 200 cây số, trong đó có những súc gỗ dài đến 11m, nặng đến 7 tấn. Ðá loại thường được khai thác ở Thiện-dưỡng. Ðá quý thì phải đến núi Nhôi, Thanh-hóa cách 70 cây số, có phiến nặng đến 20 tấn.
Phương tiện vận chuyển chính yếu là thuyền bè được kết lại thành từng mảng lớn xuôi ngược trên những giòng kênh mà trước đây cụ Nguyễn Công Trứ đã ra công khai mở.
Thật là cả một quá trình chuẩn bị trường kỳ và gian khổ, không những không cản trở mà còn hun đúc thêm quyết tâm của Cha Trần Lục cũng như toàn thể giáo dân xứ Phát-diệm. Tất cả chỉ còn chờ thời điểm thuận lợi nhất để bắt tay khởi công...
Kiến trúc sư Mai Hữu Xuân
Trích Luận Văn Thạc Sĩ Kiến Trúc Quy Hoạch 1999
Nhà thờ Phát Diệm, huyện Kim Sơn (Ninh Bình) là sự kết hợp hài hoà về nghệ thuật kiến trúc Âu châu và Á Đông, với phong cảnh sơn thủy hữu tình.
| ||
| ||
| ||
| ||
| ||
| ||
|
http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/tranluc/tranluc.htm
No comments:
Post a Comment