Kiến trúc chùa Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên
Trong bài diễn văn khai mạc lễ đặt đá xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền sư Thích Thanh Từ, Viện trưởng Thiền viện Trúc Lâm Đà lạt, người có ảnh hưởng lớn nhất đến việc xây dựng các Thiền viện Trúc Lâm ở Việt Nam trong đó có Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên và là người mang tâm nguyện lớn lao làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc, đã nói:“…Ngày nay, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được hình thành trên phế tích của một nền chùa cổ có tên là Thiên Ân Thiền Tự. Đây cũng là nhân duyên của Thiền phái Trúc Lâm với chốn Tổ ở Tây Thiên. Ngoài chức năng trùng hưng lại một trung tâm Phật giáo Việt Nam thời Hùng Vương, góp phần tôn tạo cảnh quan cho khu di tích danh thắng Tây Thiên, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên còn là nơi tạo tiền đề cho những công trình nghiên cứu, khai quật kế tiếp sau này nhằm làm sáng tỏ giá trị của Phật giáo Tây Thiên, cái nôi của Phật giáo Việt Nam. Qua đó Thiền phái Trúc Lâm đã cùng với Giáo Hội góp phần phát huy và bảo tồn bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Đây là duyên cớ khiến chúng tôi quan tâm đến danh thắng Tây Thiên và cho tiến hành xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Hiện nay, trong khi còn chờ đợi những phát hiện mới về khảo cổ học ở Tây Thiên, theo chúng tôi, qua các nguồn sử liệu và lịch sử phát triển của dân tộc, có thể nói - Tây Thiên là chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào nước ta thời Hùng Vương, khoảng năm 300 TCN, và đoàn hoằng Pháp của vua A-Dục (Asoka) do ngài Sona và Uttara dẫn đầu là những người đầu tiên đem Phật giáo vào nước Văn Lang thời Vua Hùng.
Vào thời Hùng Vương lãnh thổ nước ta còn nhỏ bé, riêng chỉ có khu vực Tây Thiên Tam Đảo này mới có núi non liên hoàn, rừng thâm u rậm rạp, có suối chảy, thác cao, cảnh trí u nhã, thanh tịnh, thích hợp cho người tu Thiền, tìm cầu giác ngộ giải thoát, cho nên các Thiền sư về đây ẩn tu, dựng lập các Thiền Tự. Danh tự Tây Thiên, nghĩa đen là Trời Tây, trong kinh Phật, từ ngữ Tây Thiên hay Tây Trúc được dùng để chỉ cho nước Ấn Độ, nơi phát sinh ra đạo Phật. Do đó việc đặt tên Tây Thiên có ý nghĩa để chỉ nơi khởi nguồn đạo Phật ở Việt Nam. Các nhà sư Ấn Độ sang nước ta truyền đạo, khi đến vùng Vĩnh Phúc gần kinh đô Văn Lang, dân cư đông, lại thấy cảnh cảnh trí đẹp giống như “cảnh Phật” ở bên Ấn Độ, nên các Ngài dừng chân tại đây để hành đạo, sau đó đạo hạnh của các Ngài lan tỏa khắp các nơi trong và ngoài nước.
Thiền học Việt Nam khởi nguồn từ Ngài Khương Tăng Hội vào khoảng thế kỷ thứ 3 tại trung tâm Luy Lâu, Ngài không chỉ là sáng tổ của Thiền học Việt Nam, mà còn là người đem Thiền học truyền sang Trung Quốc. Cha Ngài là người nước Khương Cư (Sogdiane) mẹ người Việt, Ngài được sinh ra và học đạo tại Việt Nam, sau đó có thời gian ngài đi sang giáo hoá ở Trung Quốc.
Đến thế kỷ thứ 6, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi từ Trung Quốc truyền sang nước ta bằng đường bộ, đến thế kỷ thứ 9 dòng Thiền Vô Ngôn Thông được truyền sang nước ta rồi thế kỷ thứ 11 nước ta có thêm Thiền phái Thảo Đường, cả 3 dòng Thiền này đều từ Trung Quốc truyền vào nước ta. Mãi đến thế kỷ thứ 13, sau khi vị Hoàng đế anh hùng của dân tộc là vua Trần Nhân Tông xuất gia tu hành ở Yên Tử, giác ngộ đạo Phật (hoằng dương được Phật Pháp) rồi dung hợp 3 phái Thiền trên thành Thiền phái Trúc Lâm, mang bản sắc văn hoá của dân tộc Đại Việt, từ đó chúng ta mới có dòng Thiền Việt Nam đầu tiên. Với tài tổ chức về hành chính của một đấng minh quân, Ngài thống nhất Phật giáo, thành lập giáo hội, rồi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam đầu tiên ra đời. Tinh thần Thiền Tông thời Trần là một tư tưởng đạo đức lớn của ông cha ta, nếu ông cha ta không khéo léo giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và sống đời đạo đức thì có lẽ dân tộc ta có thể bị tiêu diệt hay bị đồng hoá theo quy luật khắc nhiệt của Tạo hoá rồi.
Do nhận thức được giá trị sâu sắc về tư tưởng đạo đức và đường lối tu hành của Thiền phái Trúc Lâm, chúng tôi về đây để cùng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thắp sáng ngọn đèn chánh pháp tại chốn tổ Tây Thiên, xây dựng lại chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam đã có từ thời đầu dựng nước, để khẳng định với Thế Giới rằng: Đạo Phật vào Việt Nam trước thế kỷ thứ 2 (sớm hơn Trung Quốc), dân tộc ta từ thời các vua Hùng đã sớm biết tu Thiền, giác ngộ đạo Phật. Việt xây dựng lại chiếc nôi của đạo Phật tại Tây Thiên còn là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng lành mạnh cho nhân dân và Phật tử hành hương về đất tổ trong thiên niên kỷ mới này.
Về mặt kiến trúc, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ mang dấu ấn của thời đại chúng ta, mang dấu ấn của ngôi chùa Việt Nam ở thiên niên kỷ mới này, chứ không phải là ngôi chùa ở thế kỷ 16 hay 17, để phản ánh trình độ văn hoá kiến trúc đương đại cho các thế hệ mai sau.
Về mặt cảnh quan, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ là một điểm thăm quan du lịch mới cho nhân dân và Phật tử cả nước về du lịch văn hoá tâm linh, hành hương hay dã ngoại. Là nơi lưu giữ những cổ vật của Phật giáo tại Tây Thiên, để giới thiệu về sự phát triển của Phật giáo Việt Nam từ thời vua Hùng dựng nước cho đến ngày nay, qua đó giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào của dân tộc.”
Như vậy, so với các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên…, Phật giáo được truyền vào Việt Nam rất sớm. Tuy nhiên cho đến ngày nay, việc xác định nguồn gốc đầu tiên khai sinh Phật giáo Việt Nam vẫn còn là một nghi vấn chưa có sử liệu nào chính thức ghi lại một cách cụ thể. Chúng ta đều biết Phật giáo đã đồng hành cùng dân tộc trong suốt bề dày lịch sử, từ thời dựng nước đến nay. Việc xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, một công trình Phật giáo to đẹp và khang trang, tại nơi đất tổ là mối lương duyên của trời đất, giúp người dân Việt Nam trở lại với nguồn cội để hiểu được các giá trị đích thực của lịch sử. Việt Nam đúng là nơi Giao Chỉ, phải hiểu Giao Chỉ theo ý nghĩa là nơi giao lưu hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa, chứ không phải theo cách giải thích Giao Chỉ là hai ngón chân to quẹo lại với nhau như một thứ tật nguyền. Đã đến lúc chúng ta cần phải làm rõ, nêu bật bản chất cao quý của người Việt Nam, từ thời cổ đã là một dân tộc cởi mở, như ngày nay chúng ta nói: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên Thế Giới.
Đã có nhiều ý kiến khác nhau về kiến trúc của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Thiết nghĩ việc đưa ra những quan điểm thậm chí tranh cãi là rất cần thiết, bởi lẽ chỉ có thực tiễn mới kiểm nghiệm được chân lý, chỉ qua thời gian mới có thể khẳng định được giá trị của một công trình kiến trúc. Có rất nhiều công trình kiến trúc bị người đương thời coi là không phù hợp nhưng qua thời gian nó đã thực sự trở thành những di sản văn hoá vật chất của các thế hệ kế sau. Người nghệ sĩ sáng tạo ra nghệ thuật là để trường tồn cùng với thời gian, một công trình kiến trúc sẽ sống mãi khi nó phản ánh đúng các giá trị văn hoá, lịch sử.
Trên tạp chí Kiến trúc (của hội kiến trúc sư Việt Nam) số 11, năm 2005 có đăng một bài viết của tác giả Trần Thị Thu Hà nhan đề: vài suy nghĩ về Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Tác giả có viết: “Hình ảnh ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt, nhất là nông dân miền Bắc là ngôi chùa “hoà” vào thiên nhiên. Cây cỏ không làm nhoè đi kiến trúc, mà làm cho cảnh quan kiến trúc, trời đất hoà vào trong một thể thống nhất… Với những gì được biết trước đây về ngôi chùa Việt truyền thống và vẻ đẹp khó cưỡng lại được của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên hiện tại, phải rất lâu tôi mới định tâm để hiểu được vì sao một số nhà nghiên cứu văn hoá dân gian và một bộ phận nông dân bản địa cho rằng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên xa lạ với chốn tu hành. Nhìn từ chân núi lên, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên đồ sộ, án hơn là ẩn mình trong thiên nhiên, là một công trình kiến trúc mới, kết cấu chắc khoẻ, như muốn vươn trội lên thiên nhiên, ẩn thức tâm linh trong chùa Việt quen thuộc không còn ở đây, công trình đã không xuôi theo dòng chảy tâm linh quen thuộc… Việc điểm xuyết những ngôi chùa mới như Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên càng làm tăng thêm sự tín tâm ngày càng nhiều của kẻ hành hương. Song không vì thế mà nhân rộng mô hình này, dẫu không dễ dàng, song rất nên thận trọng.”
Đây chỉ là một ý kiến, chưa phải là một công trình nghiên cứu sâu sắc, nhưng nó đã gợi ra những vấn đề cần phải làm sáng tỏ: Thứ nhất Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên có kế thừa bản sắc văn hoá truyền thống của kiến trúc Phật giáo Việt Nam qua các thời đại hay không, thứ hai công trình có xứng đáng với tầm vóc là nơi tôn vinh các giá trị trong sáng của Phật giáo không, cuối cùng công trình có phản ánh trung thực trình độ văn minh của xã hội hiện tại hay không? Cần phải có các công trình nghiên cứu thật sâu sắc để giải đáp các câu hỏi trên, không chỉ giải đáp cho thế hệ hôm nay mà còn giải đáp cho các thế hệ mai sau. Đã có nhiều nghiên cứu như vậy, trong đó, đáng chú ý nhất phải kể đến nghiên cứu của những người đã xây dựng nên công trình này, các Thiền sư Trúc Lâm, họ đã góp phần đưa ra những lý giải sâu sắc về một ngôi chùa của thế kỷ 21, ngôi chùa đó không phải là sự lặp lại hình thức quen thuộc của các ngôi chùa thời trước, mà là một công trình tôn giáo tiêu biểu của thế hệ hôm nay nhằm hướng về các giá trị trong sáng, vượt trước khoa học, của đạo Phật. Họ không chỉ mang tâm nguyện làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc, khôi phục lại chốn Tổ điêu tàn đã bị lãng quên, mà còn giúp nhân dân tránh khỏi sự u mê tín ngưỡng, thần thánh hoá đức Phật. Nếu hiểu được Phật ở ngay trong tâm ta, tin tâm mình là Phật, Phật Pháp tuỳ duyên mà sinh ra, tuỳ duyên mà mất đi chứ không phải do chủ ý của con người. Đức Phật không phải là đấng quyền năng, không ban phúc giáng hoạ cho ai. Đức Phật muốn cứu khổ cho nhân loại, cứu độ muôn loài, Ngài chỉ cho con người con đường tu hành đi đến giác ngộ giải thoát, khi có tuệ giác ngộ rồi cần phải có hạnh nguyện lớn để vượt qua mọi thử thách gian lao, chiến thắng chính bản thân mình, cứu độ cho chúng sinh. Đạo Phật nói: “chiến thắng vạn binh không bằng chiến thắng chính mình, chiến thắng chính mình là một chiến công oanh liệt nhất”. Vì vậy việc đi chùa để cầu xin Phật, cầu xin đấng quyền năng ở ngoài tâm mình, trong khi không biết tự soi xét vào chính bản tâm mình là việc làm trái với đạo Phật, là ngoại đạo, Phật dạy: “ngoài tâm mà cầu Phật là ngoại đạo”. Ngôi chùa mà tạo ra cảm giác thần bí, linh thiêng thì dễ hướng người dân đến việc mê tín, lãng quên mất bản tâm của mình, không nghe theo lời dạy của đạo Phật mà chỉ biết trông mong vào những sức mạnh siêu nhiên thần bí, đấy là sự trở lại của tín ngưỡng thần quyền thời trung cổ, hoàn toàn đi ngược lại với khoa học. Nhà khoa học vật lý vĩ đại Albert Einstein đã từng nói: “Phật giáo không cần phải xét duyệt lại nhằm cập nhật hoá với những khám phá khoa học mới đây, Phật giáo không cần phải bỏ quan điểm của mình để theo khoa học, vì Phật giáo không những đã bao gồm cả khoa học, mà còn vượt trước cả khoa học”. Ngôi chùa phải là nơi ta tự soi vào chính bản thân mình, vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với con người, hài hòa với thiên nhiên, không gian bên trong phải rộng rãi, cao ráo và thoáng mát để thiên nhiên có thể tràn ngập vào trong nhà, người tu Thiền khi ngồi tụng kinh, hành Thiền hay nghe giảng Pháp đều thấy dễ chịu và không bị phân tâm. Vậy những ngôi chùa mà hình ảnh đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt, thậm chí quen thuộc đến nỗi người ta quên đi cả ý nghĩa tư tưởng chứa đựng trong đó, có thực sự là nơi phù hợp với chốn tu hành và là nơi con người tìm về với bản tâm “Thiện” trong mình. Chỉ khi nào chúng ta gạt bỏ việc mê tín và tín ngưỡng thần quyền, một lòng hướng Phật thì mới có thể đưa ra câu trả lời cho riêng mình.
Thiền sư Thích Kiến Nguyệt, người đã thay mặt Thiền sư Viện trưởng Thích Thanh Từ chủ chì thiết kế và thi công xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, qua những nghiên cứu của mình đã góp phần giúp chúng ta hiểu rõ thêm về kiến trúc ngôi chùa Việt Nam trong thiên niên kỷ mới. Ông nói: “nếu như một di tích ở thời xa xưa nay là phế tích, chỉ còn nền chùa, hay một vài tấm vách đứng trơ vơ cùng cây cỏ hoang vu, thì chúng ta nên xây dựng lại như thế nào? Nên mang dấu ấn kiến trúc của ngôi chùa cổ ở thế kỷ 16 – 17 hay mang dấu ấn kiến trúc của thời đại chúng ta hôm nay? Theo chúng tôi, ngôi chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của Phật giáo, trước hết nó phải thể hiện được tinh thần giáo lý của đạo Phật, sau đó đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ ở thời đại đó. Về kiến trúc nó phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, có tính kế thừa và phát huy theo tiến trình phát triển xã hội ở từng thời điểm.” Vậy thì thế nào mới là một ngôi chùa mang bản sắc văn hoá dân tộc, mang bản sắc kiến trúc mỹ thuật truyền thống, ông nói tiếp: “thời Nguyễn khi trùng tu tôn tạo lại những ngôi chùa cổ thời Lý Trần, họ không xây dựng theo kiểu kiến trúc Lý Trần mà xây dựng theo kiến trúc thời nhà Nguyễn, và có phải ngôi chùa thời Lê Nguyễn mới là bản sắc văn hoá dân tộc, có chắc gì kiến trúc đó không chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa? Bây giờ chúng ta xây dựng mới trên nền di tích có nên xây theo kiểu kiến trúc thời Lê Nguyễn hay xây theo kiến trúc ngôi chùa Việt Nam ở thế kỷ 21 này?... Nhiều chùa hiện nay gắn hoa văn trang trí thường hay bắt trước chùa khác mà không tìm hiểu ý nghĩa có đúng theo giáo lý nhà Phật không. Có những hoa văn đẹp mang ý nghĩa của Phật giáo sao chúng ta không dùng như: bánh xe Pháp, đặt ở nơi thờ Phật, vân mây tượng trưng cho sự vô thường, không sinh không diệt của các Pháp, hoa sen và lá bồ đề biểu trưng cho sự giác ngộ, giải thoát…” Như vậy, bản sắc văn hoá của dân tộc biểu hiện trong kiến trúc các ngôi chùa cổ ở Việt Nam không phải hoàn toàn là những thứ ta nhìn thấy, không phải tường mái hay cửa mà là không gian tồn chứa trong nó, không gian dành cho sự sống trong đó (không gian của sự vĩnh hằng, siêu thoát). Ông phân tích: “những ngôi chùa cổ hiện nay chỉ thích hợp với Phật giáo ở thời kỳ thần học. Ngôi chùa chia làm nhiều gian, nhiều cột, nhiều bàn thờ, nhiều cốt tượng, mái thấp, tối om om, khói nhang nghi ngút thích hợp với chốn thần quyền linh thiêng. Trong khung cảnh “linh thiêng thần bí” đó người Phật tử đến chùa dễ quên mất bản tâm mình, thường hướng ngoại, cúng vái cầu xin Đức Phật, Bồ Tát, Chư Thần. Những ngôi chùa như vậy là nơi nuôi dưỡng “dung túng” cho việc mê tín (sự u mê tín ngưỡng), trái với giáo lý của nhà Phật, trái với khoa học. Có vị sư tổ đã dạy: thờ cốt tượng không bằng thờ kinh sách, thờ kinh sách không bằng thờ thầy dạy đạo, thờ thầy dạy đạo không bằng thờ chính bản tâm mình. Với mỗi ngôi chùa, trong Chính điện thờ một tượng Phật, hai bên thờ hai vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ Tát Phổ Hiển là đủ.”
Lịch sử Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hoá Trung Hoa, từ hệ tư tưởng xã hội đến nghệ thuật truyền thống. Đã có thời gian ở Việt Nam Phật giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị (trở thành Quốc đạo), nhưng sau do trào lưu du nhập, đạo Lão và đạo Khổng (Lão giáo và Nho giáo) dần chiếm vị trí cao hơn, thu hẹp dần ảnh hưởng của đạo Phật, trong một thời gian dài của lịch sử cho đến tận ngày nay, các chùa chiền, đình đền, miếu mạo là một biểu hiện rõ nét nhất của sự du nhập đó, một sự hoà hợp của ba hệ tư tưởng lớn: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo (tam hợp). Chính điều này đã dẫn đến việc “bắt trước” ở trên, sự pha trộn nếu không biết chọn lọc sẽ dẫn đến một mớ hỗn độn. Ngày nay nếu không tinh ý và có hiểu biết nhất định về lịch sử thì chúng ta khó có thể phân biệt được giữa chùa, đình và đền. Ở đâu ta cũng thấy lặp lại các hoa văn trang trí, vào bên trong thì luôn thấy có nhiều bàn thờ và nhiều cốt tượng, khói hương nghi ngút, khung cảnh thần bí.
Tất cả những thứ ta nhìn thấy đó không phải là bản sắc văn hoá của dân tộc, bản sắc văn hoá là những giá trị tồn tại trong tiềm thức của con người, được lưu truyền và chảy chung cùng dòng chảy lịch sử. Văn hoá là những giá trị còn đứng vững trước những thử thách khắc nhiệt của thời gian, đó còn là một nền tảng cho sự phát triển xã hội trong tương lai. Ta không thể cảm nhận được văn hoá qua các giác quan thông thường, bởi lẽ văn hoá đã ẩn sâu trong từng mạch máu, từng tế bào của con người, giống như hòn đá nằm dưới suối, khi nước chảy qua chỉ để lại các bọt sủi. Xã hội vẫn phát triển và con người tiếp tục sáng tạo ra các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần, đối với những công trình kiến trúc có hình thức mới mẻ, chúng ta không nên có thái độ phê phán, phủ nhận, bởi vì rất có thể, đó chính là sự thăng hoa của các giá trị văn hoá ẩn sâu trong tiềm thức, là sự sáng tạo nghệ thuật phục vụ con người và sẽ trở thành di sản cho các thế hệ mai sau . Dân tộc Việt Nam đã đứng vững trước những thử thách khắc nhiệt nhất của lịch sử là do biết giữ gìn bản sắc văn hoá, biết kế thừa và phát huy, biết tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại. Bản sắc “riêng” của chúng ta chính là sự hoà hợp của các dòng văn hoá lớn trong tâm hồn người Việt. Giao Chỉ là nơi giao lưu của các nền văn minh, đây là hàm ý sâu xa mà tổ tiên đã nhắc nhở con cháu.
Ngày nay, khi quan sát các ngôi chùa ở Việt Nam ta thấy phần lớn giống với kiến trúc chùa chiền bên Trung Quốc, có chăng chỉ là sự khác nhau về kích thước của các kết cấu, chúng ta sao chép lại sao cho phù hợp với kích thước của con người và cảnh quan thiên nhiên Việt Nam, chứ không có sự sáng tạo nào đáng kể. Các ngôi chùa ở miền Bắc đa phần là thấp nhỏ, kích thước trải dài theo chiền ngang, ẩn mình vào thiên nhiên, còn các ngôi chùa trong miền Nam thì sử dụng vật liệu xây dựng mới, kết cấu chắc khoẻ, vươn mình ra khỏi thiên nhiên. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã ảnh hưởng đến việc xây dựng các ngôi chùa sau này, tạo ra những hình thức mới mẻ, mang lại cho con người những không gian sinh hoạt tâm linh phong phú hơn. Không thể nói dòng chảy tâm linh của người Việt đã thay đổi, mà phải hiểu cuộc sống tâm linh của người xưa đã hoà cùng thế giới quan khoa học của thời nay. Đạo Phật không gì khác chính là thế giới tự nhiên của ý thức con người, gắn bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên lớn, đó là một thiên nhiên của con người bên trong thiên nhiên lớn, là thế giới của nội tâm, của trí tuệ được giác ngộ giải thoát. Xã hội loài người sinh ra từ tự nhiên và quay trở lại quyết định sự tồn tại của tự nhiên. Những sản phẩm do con người tạo ra có thể thân thiện hoặc không thân thiện với tự nhiên, nhưng trong sâu thẳm ý thức con người vẫn tồn tại một thế giới tự nhiên được sinh ra từ tự nhiên lớn, bản tâm con người luôn hướng về thiên nhiên, nơi cội nguồn của cái Thiện. Kiến trúc sư Frank Lloyd Wright, một trong những gương mặt sáng giá nhất của kiến trúc hiện đại thế giới, bậc thầy của kiến trúc hiện đại thế kỷ 20, đã nói: “kinh thánh của tôi là thiên nhiên”.
Ngôi chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo vì vậy phải rộng thoáng như một hội trường. Không thể nói rằng kiến trúc ngôi chùa Việt Nam trong thế kỷ 21, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, phải là kiến trúc phong cảnh, giống như hình ảnh quen thuộc của các ngôi chùa cổ ở Việt Nam, ngôi chùa đó có thể là một hình thức hoàn toàn mới mẻ, sử dụng vật liệu mới, kết cấu chắc khoẻ vươn lên cao và ra xa, đó là sản phẩm của con người không thể lẫn với thiên nhiên nhưng hài hòa với thiên nhiên. Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên là một quần thể kiến trúc gồm nhiều công trình lớn, các công trình chính như cổng tam quan, lầu chuông, lầu trống, chánh điện, nhà tổ…, và các công trình phục vụ khách thăm quan như nhà khách, nhà trưng bầy… Ngoài ra còn quy hoạch xây dựng khu nội viện gồm: tăng đường (nơi chư tăng ở), thiền đường (nơi toạ thiền), trai đường và các thất chuyên tu. Đồng thời còn có thư viện xây hình bát giác trên đồi, đỉnh đồi của thư viện là một tượng Phật cao 35m. Toàn bộ diện tích của Thiền Viện là 4,5ha, rừng ngoại vi rộng 50ha, quy mô hoành tráng tương xứng với ý nghĩa lịch sử của nó.
Có lẽ là duyên trời hội ngộ, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên có sự đóng góp của các làng nghề truyền thống nổi tiếng Việt Nam. Các chi tiết trang trí, tạc tượng, hoành phi, câu đối, cửa võng, phù điêu, sân vườn, cây cảnh đều mang dấu ấn của nền mỹ thuật Việt Nam đương đại. Các tượng Phật, Bồ Tát, và Tổ của Thiền phái Trúc Lâm đều được làm bằng đá sa thạch, do làng nghề đá Non Nước Đà Nẵng thực hiện, làng nghề đá Ninh Bình thực hiện các câu đối ở cổng Tam quan và đỉnh hương đặt trước Chính điện bằng đá Thanh Hoá. Về mộc, làng nghề Hà Tây nổi tiến về đục chạm hoành phi câu đối, cửa võng, tủ thờ nên được chọn để đóng bàn thờ Phật, bàn thờ Bồ Tát và hoành phi, cửa võng, hoa văn trên các cánh cửa, câu đối trong Chính điện. Làng nghề Đồng Kỵ Bắc Ninh nổi tiếng về nghề gỗ được giao cho đóng bàn thờ và bức hoành phi trong nhà thờ Tổ. Về thợ hồ, thì sử dụng thợ ở tại địa phương, một số thợ ở Hà Nội, Nam Định, Bắc Ninh, tham gia làm các mái đao, lợp ngói, trang trí hoa văn. Phần phù điêu do nhà điêu khắc Lương Xuân Thanh ở đê Yên Phụ Hà Nội thực hiện bức lịch sử Đức Phật, còn lại là do nghệ nhân Trịnh Thịch ở Phủ Lý thực hiện. Lò đúc Huế từ xưa đến nay nổi tiếng về nghề đúc chuông được chọn để đúc chuông Gia trì đường kính 9 tay và đúc đại hồng chung nặng 2 tấn, còn nghệ nhân từ Nha Trang thì làm mỏ chùa đường kính 10 tay. Về trống, nhờ đủ duyên nên mua được khúc gỗ mít rừng ở Gia Lai có đường kính 1,5m để làm trống có tang liền, sau đó nhờ các nghệ nhân ở Long Khánh chuyên làm trống cho Thiền viện Trúc Lâm thực hiện.
Thiết nghĩ, chúng ta nên có nhiều cuộc tranh luận hơn nữa, góp phần làm sáng tỏ giá trị văn hoá lịch sử của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên trong thời đại ngày nay, một thời đại mà các sự kiện diễn ra quá nhanh chóng, thật giả khó lường. Bên cạnh những thành tựu đáng mừng là những nỗi lo âu, không phải chỉ với những nghịch lý xuất hiện ngày càng nhiều trong mối quan hệ giữa người với người, mà ngay cả trong mối quan hệ giữa người với tự nhiên, gây ra những thảm hoạ ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, huỷ diệt giống loài… Con người đang làm cho Trái Đất “nóng lên”, và đến một lúc nào đấy, sự nổi giận của Trái Đất sẽ biến thành dòng nham thạch hung dữ, cuốn băng đi tất cả, khi đó con người buộc phải “tĩnh tâm” nhìn lại chính mình, lòng hướng về cõi Phật. Tôi đã nói ra và linh hồn tôi được cứu rỗi. Theo KTS Nguyễn Tiến Hiệp
Tháp Phổ Minh - Nét kiến trúc Phật giáo độc đáo
Đạo Phật du nhập vào Việt Nam cho đến nay đã hơn hai ngàn năm. Ngay từ khi mới du nhập, với tính cách ôn hoà, thần bí, với tư tưởng siêu việt và những giáo vụ từ bi bác ái của Đức Phật rất phù hợp với phong tục thuần hậu của nước ta. Chính vì vậy, đạo Phật dễ dàng hoà nhập vào những tập tục dân gian để mau chóng ăn sâu vào lòng tín ngưỡng của người Việt. Đặc biệt, ở thời kỳ Lý - Trần (thời kỳ độc lập tự chủ, xây dựng và củng cố chế độ phong kiến), đạo Phật rất được giai cấp thống trị coi trọng, nhiều nhà sư trở thành những cố vấn tin cậy của nhà vua, đạo Phật trở thành quốc giáo. Từ tín ngưỡng, Phật giáo có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều lĩnh vực khác trong xã hội như chính trị, văn học - nghệ thuật, kiến trúc..., để lại cho dân tộc nhiều công trình văn hoá có giá trị lớn. Một trong những thành tựu văn hoá Lý - Trần còn tồn tại gần như nguyên vẹn cho đến ngày nay là tháp Phổ Minh - nét văn hoá kiến trúc Phật giáo độc đáo thời Trần.
Từ đầu năm 1239, các vua Trần đã xây dựng tại quê hương Tức Mặc của mình hàng loạt các cung điện, lầu gác làm nơi ở cho hoàng thân quốc thích. Đây là trung tâm thứ hai của đất nước bên cạnh kinh đô Thăng Long. Để đáp ứng nhu cầu lễ Phật cho con em hoàng tộc trong vùng, năm 1262, chùa Phổ Minh được xây dựng. Hơn nửa thế kỷ sau, vào đầu thế kỷ XIV, vua Trần tiếp tục cho xây cây tháp Phổ Minh, hoàn thiện kiến trúc của chùa.
Tháp Phổ Minh nằm trong quần thể kiến trúc chùa Phổ Minh, thuộc làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay thuộc xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, ngoại thành Nam Định, cách phía Bắc thành phố gần 2 km). Chùa tháp Phổ Minh được xây dựng trên một địa thế tách biệt với xóm làng, vốn tĩnh mịch, thâm nghiêm và cũng rất đẹp, gần với cung Trùng Quang - nơi ngự của các vua Trần khi nhường ngôi cho con để lên làm Thái Thượng Hoàng.
Tháp Phổ Minh gồm 14 tầng, cao 21,2 m, bề thế và vững chắc. Mái của các tầng đều rất hẹp. Điều đáng chú ý là kiến trúc đã biết giải quyết các tầng mái bằng cách xây gạch nhô dần ra thành nhiều lớp cấp nhỏ, uốn cong lên, hoà vào cái thế vươn lên chung của toàn bộ kiến trúc. Càng lên cao, các tầng thu hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm hình bầu rượu có nhiều cạnh.
Cũng như chùa, tháp Phổ Minh quay mặt về hướng Nam, mặt bằng được bố cục vuông, cạnh đáy của đế dài 5,21 m. Các tầng trên đều có cửa bốn phía, được trổ theo lối cuốn tò vò. Riêng tầng dưới cao trội hẳn lên (2,2 m), cửa của nó người lớn có thể vào thắp hương dễ dàng (cao 1,09 m, rộng 0,77 m).
Toàn bộ tháp được xây trên một hồ vuông, nông, nhỏ (rộng 8,6 m). Hồ có hành lang bao bọc, bốn phía cũng có cửa và các thành bậc được chạm trổ rồng đá, sấu đá. Phần nền đế chân tháp gồm nhiều tầng cấp thu dần vào và gần đến hết lại nhô ra. Chính ở cấp cuối cùng của phần nền đế trước khi đi vào tầng tháp thứ nhất, nghệ sĩ xưa đã sử dụng mặt ngoài của cấp này, dùng thủ pháp tạo ra một vành đai trang trí xen kẽ những cành hoa lá đan chéo nhau và những hoa hình tròn, cánh hoa ngã vòng quanh, còn ở giữa có cánh hoa cất lên và xoáy trôn ốc. Vành đai này là một bức diềm những nét khắc nhỏ tuyệt đẹp, hai thứ hoa lặp đi lặp lại chạy vòng chung quanh tháp, khi ánh sáng chiếu xiên vào, hiện lên như một vòng hoa màu xám dịu dàng và tế nhị.
Về chất liệu, tháp là một công trình hỗn hợp giữa gạch và đá. Bệ và tầng dưới của tháp được xây bằng loại đá xanh mịn vừa đẹp vừa có sức nặng, làm tăng độ bền cho móng nền. Các tầng trên đều được xây bằng gạch nung mỏng, nhẹ, rất tiện lợi cho việc xây lắp. Kết cấu của tháp ở các tầng đá chủ yếu dựa vào các mộng và keo vữa kết dính. ở các tầng trên, ngoài vữa còn có các dây đồng xâu móc qua các viên gạch để làm tăng độ bền vững cho kiến trúc. Về cấu trúc của tháp, sách “Đại Nam nhất thống chí” còn cho biết, ngày xưa người ta xây một cột đá bên cạnh và lấy dây đồng để ràng lấy đỉnh tháp.
Trang trí trên tháp cũng rất ấn tượng. Bên cạnh các tượng đá hình cá sấu, hình rồng được tạc ở các thành cửa vào hồ quanh tháp thì các nghệ sĩ đã chạm các lớp cánh sen với nhiều hoa văn hoa dây uốn lượn quanh cửa tháp và trên các mặt tường.
Hàng loạt hoa lá được chạm khắc như vẽ trên đá là những hoa và lá mọc trong ao, trong vườn Việt Nam, do vậy nó luôn gây ấn tượng mạnh mẽ trong tình cảm của người Việt. Đó là hoa sen, hoa cúc, hoa mai.. .và những dây leo trên giàn hay bờ giậu của nhiều gia đình đã đi vào ca dao, vào thơ văn của dân tộc.
Những hình trang trí trên đá vô cùng gần gũi với hội họa. Đó chính là những hình ảnh được các nghệ sĩ tạo thành bởi thủ pháp rạch chìm những nét nông, mảnh, từng nét cứ hiện ra dưới lưỡi đục sắc, khi thì nhịp nhàng chính xác, lúc lại vung vẩy phóng khoáng. Hình khắc rạch trên phần đá của tháp Phổ Minh tạo ra các hoa văn hoa lá, sóng nước, mây trời đơn giản, sáng sủa rất sinh động bao viền quanh thân tháp và các cửa tháp. Sự vận dụng những đường cong khéo léo tạo cho tác phẩm có chất tươi mát, cuồn cuộn và sinh động rất lạ thường.
Tầng tháp thứ nhất được bắt đầu bằng một vòng những cánh sen hai lớp, lớp dưới cúp xuống, lớp trên ngửa lên nở xoè, tạo cảm giác cây tháp như mọc trên một đoá hoa sen khổng lồ. Khác hẳn với cánh sen thời Lý thanh dài và bên trong thường được trang trí đôi rồng rắn, những cánh sen ở đây đều mập mạp, có mũi cong xoắn lại, nó vẫn hiện thực nhưng đã được nâng lên theo trí tưởng tượng của nghệ sĩ. Bên trong cánh sen còn trang trí những móc câu, hoa và nhánh hoa dây móc nhau. Cùng với các cánh sen ở bệ tháp, việc xây hồ quanh tháp phải chăng là do những người xây dựng muốn tạo cho tác phẩm kiến trúc của mình thành một hình tượng búp sen khổng lồ đang nổi trên mặt nước, một hình tượng mang ý nghĩa của nhà Phật (kiến trúc mô phỏng hoa sen khác với kiến trúc chùa Một Cột).
Bốn cửa tháp ở tầng dưới đều có gờ nhô ra, trên mặt gờ rất nhẵn, được khắc rạch những nét nhỏ hoa lá cách điệu. Đó là những vòng tròn ở chính tâm có bông hoa nhỏ sáu cánh (đôi khi năm hoặc bảy cánh), rồi từ đó toả ngược ra hai nhánh lượn thành đường xoắn ốc kép. Hai bên mỗi nhánh lại rậm rạp những lá nhỏ ken xít nhau. Giữa các hoa lá ấy là những nhánh lá cùng loại, cũng xoắn lại, rất dày và hợp thành hình giống như chữ “X”. Lại có những nhánh hoa to mập, uốn cong lưỡi liềm rất duyên dáng, mà phần đài hoa vừa như mây cụm, vừa như thứ nấm gần gũi với cỏ linh chi, cứ thế lặp đi lặp lại nhiều lần thành một dải dài.
Chân cột góc của tầng tháp dưới này được trang trí cũng bằng lối khắc rạch hai bức diềm nhỏ chồng chéo lên nhau chạy song song. Bức diềm phía trên gồm những bông hoa nhọn đầu, mập, uốn cong lưỡi liềm rất mềm mại, phía dưới có đài và cuống hoa biến thành cụm mây cách điệu. Còn bức diềm phía dưới thì rõ ràng là một dãy sóng nước cách điệu. Sóng nước ở đây có hai phần, phần dưới như một dòng nhạc năm dòng kẻ song song lượn sóng đều đặn, phần trên là những ngọn sóng đầu nhô cao gồm các đường cong nối nhau gẫy khúc. Điều đặc biệt là trong mỗi ngọn sóng lại có một bông hoa nhỏ xinh xắn.
Kiểu hoa văn cuối cùng trang trí trên tháp dưới là mây trời được khắc thành băng dài cuốn quanh phía trên tầng tháp này. Mây ở đây là những cụm nhỏ xoắn xuýt, dày đặc nhưng dàn mỏng, có sự cách điệu và được chạm nổi.
Còn ở các tầng trên, trang trí chủ yếu trực tiếp vào các viên gạch. Cạnh ngoài của mỗi viên đều có khắc hình rồng cuộn khúc vờn mây. Rồng là biểu tượng cội nguồn dân tộc, một biểu tượng kỳ vĩ và đặc sắc của dân tộc và văn hoá Việt Nam (dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên). Tuy phải khắc rạch trước khi nung, song hình trang trí rất mềm mại, chứng tỏ người xây dựng đã làm chủ kỹ thuật, có tay nghề khá vững vàng. Với lối xây gạch để mộc có trang trí như vậy, toàn bộ kiến trúc cây tháp sẽ đỏ rực, đẹp biết bao.
Tất cả những nét kiến trúc và nghệ thuật trên cho thấy đây là một công trình kiến trúc có giá trị của dân tộc ta. Tuy không thuộc vào loại cao lớn, nhưng do bề ngang hẹp, nên tháp Phổ Minh có dáng cao, thanh mảnh. Nó gợi cho khách đến vãn cảnh chùa - nhất là những phật tử vốn giầu lòng sùng kính - một cảm giác siêu thoát linh thiêng. Nhất là khi đứng dưới chân tháp nhìn ngược lên, các rìa mái cứ nối nhau tầng tầng lớp lớp, lên mãi không trung dễ gây lên sự choáng ngợp trước cảnh Phật. Tháp còn đẹp vì nó gắn với môi trường của cả ngôi chùa rộng lớn xung quanh. Toàn bộ cây tháp in bóng xuống mặt ao phía trước, nó hoà vào trong độ cao chung của các cây cổ thụ um tùm cạnh sân. Nhờ vậy, tuy là cảnh Phật mà vẫn ấm cúng, gần gũi với con người trần tục. Ngày xưa, giữa cảnh lầu gác cung điện của phủ Thiên Trường trù phú, với dáng cao thanh đẹp như vậy, chắc chắn tháp sẽ thu hút được sự chú ý của mọi người.
Việc tồn tại của tháp ngót bảy trăm năm ở một xứ khí hậu nhiệt đới, chiến tranh liên miên như nước ta, quả đã có giá trị vô bờ. Nó không chỉ là niềm tự hào của nhân dân, mà còn là tài sản vô giá do tổ tiên ta đã tốn bao nhiêu công sức, trí tuệ, tiền của để tạo dựng trong quá trình lịch sử của dân tộc.
Tháp vút lên trên nền trời xanh thẳm như thể hiện ý chí hiên ngang bất khuất của hào khí dân tộc một thời - hào khí Đông A - đã từng đánh bại 3 lần xâm lược của phương Bắc. Đồng thời qua đó cũng thấy được triều đình nhà Trần đã nối tiếp các triều đại trước có ý thức xây dựng quốc gia Đại Việt độc lập và tự chủ. Trong quá trình đó, bên cạnh việc xây dựng nền chính trị tự cường, các vua Trần đang cố gắng xây dựng một nền văn hoá - nghệ thuật riêng mang đậm bản sắc dân tộc.
Trong quần thể kiến trúc chùa Phổ Minh, tháp nằm ngay ở sân trước không còn chiếm vị trí trung tâm như kiến trúc chùa tháp thời Lý. Vị trí kiến trúc của tháp như một sự tiếp nối quá trình chuyển đổi từ chỗ tháp là trung tâm của chùa về đúng với vai trò ban đầu và nguyên thuỷ của nó là mộ thờ Phật.
Đầu thế kỷ XX, có một nhà buôn nổi lòng từ thiện, bỏ tiền xin trùng tu tháp đã dùng vôi vữa trát kín toàn bộ mặt ngoài lại. Kể cả quả hồ lô (chỏm tháp) vốn bằng đồng cũng đã bị lấy cắp mất từ bao giờ. Trải qua bao đời, tuy có được trùng tu sửa chữa nhiều lần, nhưng nhìn chung, tháp vẫn giữ được cốt cách, hình dáng xưa. Trần Văn Kiêm
LỊCH SỬ CHÙA LÝ TRIỀU QUỐC SƯ
Thích Bảo Nghiêm
Chùa tọa lạc tại số 50 phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Xưa kia đây vốn thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị. Đền được xây từ thời Lý để thờ Quốc Sư Minh Không. Ngài họ Nguyễn, húy Chí Thành, sinh ngày 14 tháng 8 năm Bính Ngọ, niên hiệu Long Chương Thiên Tự thứ nhất triều Lý Thánh Tông (1066) tại Làng Điềm Xá, Phủ Trường Yên (nay thuộc thôn Quốc Thanh, xã Gia Thắng huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình).
Năm 11 tuổi (1077) Ngài từ biệt song thân dốc lòng xuất gia tu Phật, cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh, được Thầy khen tài giỏi thông minh ấn chứng sau trở thành bậc “Pháp khí” trong Thiền môn, ban pháp danh Minh Không, đời thứ 13 dòng Thiền Tỳ Na Đa Lưu Chi. Qua thời gian dài theo Thầy học đạo, chứng ngộ chân không bát nhã, Ngài về trụ trì Chùa Giao Thủy (Nam Định).
Không chỉ là bậc đại sư thông tuệ Phật pháp, được giới Tăng ni ngưỡng vọng, danh tiếng của Ngài còn được vang xa và được quốc vương kính trọng; tháng 5 năm 1131, đích thân Vua Lý Thần Tông sai dựng nhà cho Ngài (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 – NXBKHXH. H, 1983 Tr 322). Ngôi nhà là nơi quốc sư thường nghỉ lại trong những lần về kinh chữa bệnh cho Vua, quan và bách tính cũng chính là vị trí của ngôi đền Tiên Thị sau này.
Tương truyền lúc còn đang học đạo, trong khi dạo chơi ở khu rừng, Thiền Sư Đạo Hạnh hóa hổ dọa, Ngài nói: “Nếu Thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo như thế.” Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia đức Thế Tôn tạo quả viên thành còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể tránh được, đời sau sẽ làm quốc chủ và sẽ chịu báo này, ông với ta có nhân duyên Thầy trò lúc đó sẽ cứu ta.” Sau khi Thiền sư Đạo Hạnh hóa, đầu thai là Dương Hoán con Sùng Hiền Hầu, được Vua Nhân Tông yêu quý lập làm Hoàng Thái tử và kế vị ngai vàng tức Lý Thần Tông hoàng đế. Lê ngôi không được bao lâu, tháng 3 năm 1136 Vua Lý Thần Tông bênh nặng, lông lá mọc khắp cơ thể, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài giỏi được triệu đến chữa bệnh nhưng không thuyên giảm, chính đại sư Minh Không là người chữa khỏi bệnh cho Vua Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, Vua Lý Thần Tông phong Ngài là Quốc sư, tha thuế dịch cho vài trăm hộ. Trong quốc sử còn ghi rằng: “Tục truyền khi sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại cho học trò Nguyễn Chí Thành tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy Quốc Vương bị bệnh là thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này.”
Ngày 1 tháng 8 niên hiệu Đại Định thứ 2 (1141) sau khi phó chúc môn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại Chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Không chỉ khi còn tại thế mà cả khi đã thác hóa, Ngài vẫn luôn hộ quốc cứu dân, Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.” Để ghi nhớ công ơn, Vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ Ngài tại làng Tiên Thị, (nguyên là Tinh xá Vua Thần Tông ban cho Ngài). Trải qua gần 9 thế kỷ, nhân dân vẫn hương khói phụng thờ, cầu đảo linh ứng.
Năm 1930 Hòa thượng Thích Thanh Định tự Quang Huy đến trụ trì đã tôn trí thêm tượng Phật, Bồ Tát và đổi thành Chùa “Lý Triều Quốc Sư.”
Cùng với những biến động của lịch sử, thời gian trôi qua làm cho ngôi đền không còn giữ được dáng vẻ của buổi khởi nguyên và đã được nhiều thế hệ tiền bối bảo quản, giữ gìn. Hiện còn thấy dấu vết của hai lần sửa chữa lớn, đó là vào mùa Xuân năm Giáp dần niên hiệu Dương Đức thứ 3 (1674) thời hậu Lê mà các di vật tiêu biểu còn để lại là hệ thống tượng chân dung tượng tạc bằng đá rất đẹp gồm tượng Phụ Mẫu Quốc Sư Minh Không, tượng Thiền Sư Từ Đạo Hạnh và Thiền Sư Giác Hải. Đây là những tác phẩm điêu khắc quý giá không chỉ ở trong Chùa mà còn là những tác phẩm tiêu biểu cho loại tượng này trong kho tàng nghệ thuật điêu khắc Việt Nam.
Một di vật còn lại cũng có niên đại thời hậu Lê là cột trụ đá trước sân, trên đỉnh nóc an trí tượng Bồ Tát Quán Thế Âm cùng Thiện Tài, Long Nữ. Thời gian gần đây, khi đào đến độ sâu 1m ở chân móng tòa chính điện, đã phát hiện được khá nhiều những viên gạch vồ lớn, màu đen giống với loại gạch vồ thời Lê ở một số di tích khác có niên đại thế kỷ XVII.
Lần trùng tu lớn thứ 2 của đền Tiên Thị vào năm 1855. Ở lần này đền được xoay lại hướng Đông như cũ và mở rộng quy mô kiến trúc với 3 gian tiền tế, 5 gian hậu cung, 2 dãy giải vũ mỗi dãy 3 gian, xây thêm tam quan phía trước và sơn thếp lại tượng thờ trong đền, tạc lại tượng Quốc sư Nguyễn Minh Không. Trong lần trùng tu này, để ghi nhớ công lao của gia đình quan huyện Thọ Xương họ Phan – gia đình đã có nhiều công sức trong việc sửa chữa đền, nhân dân đã tạc tượng họ và thờ trong đền. Đây là những pho tượng Hậu mà theo một số nhà nghiên cứu mỹ thuật cho rằng là tượng 4 công chúa và 3 quan đại thần nhà Lý; Vừa qua khi dời các pho tượng ra khỏi vị trí để tu sửa Chùa đã tìm thấy những dòng chữ ghi rõ họ tên, quê quán và năm tạc tượng ở sau lưng các pho tượng. Tất cả cứ liệu đó đều đúng với nội dung ghi trong tấm bia đá năm 1855 và bia đồng năm 1954 hiện còn lưu giữ tại Chùa.
Trải qua 145 năm tồn tại (tính từ năm 1855 cho đến nay) các hạng mục công trình đều đã bị mối mọt, hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng cần được thay thế. Từ năm 1992 được sự đóng góp của các Phật tử và nhân dân, Chùa dần dần được sửa chữa các hạng mục như nhà Tàng Kinh, Điện Mẫu, Tổ Đường…..
Ngày 5 tháng 6 năm 2000 đã chính thức trùng tu Đại Hùng Bảo Điện. Lần tu sửa này, những đặc điểm kiến trúc, trang trí kiến trúc….. vốn có của Chùa đều được giữ nguyên. Đặc biệt phần trang trí trên kiến trúc được chú ý, vẫn là các đề tài “Tứ Linh”, “Tứ Quý” nhưng đều được chạm khắc rất tỷ mỉ, công phu bởi những người thợ có tay nghề cao trong làng chạm khắc nổi tiếng vùng Nam Định.
Ngày 13/11/2000 (tức 18 tháng 10 năm Canh Thìn) nhân dân địa phương cùng nhà Chùa đã chính thức làm lễ cắt băng khánh thành Đại Hùng Bảo Điện Chùa Lý Triều Quốc Sư. Đây là một trong những công trình được gắn biển “Công trình chào mừng kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội.”
Hindu and Buddhist temples, Kathmandu
No comments:
Post a Comment