Kiến trúc công sở: Chất lượng bắt đầu từ đâu ?
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các đô thị cũng phát triển ồ ạt trong đó kiến trúc mới các công sở chiếm một khối lượng lớn, có lẽ chỉ đứng sau nhà ở. Nhưng nếu tìm một tỷ trọng tương ứng trong số các giải thưởng kiến trúc hàng năm (lẫn trong thực tế hoạt động) thì có thể khẳng định chất lượng kiến trúc công sở rất đáng buồn, đôi lúc đôi nơi đáng xấu hổ!
Và đáng nhìn lại một cách nghiêm túc vì số tiền đầu tư thật không nhỏ hàng năm mà vì nó là bộ mặt và tài sản lớn lâu dài của đất nước.
1.Kiến trúc sư đương nhiên là người nhận lỗi đầu tiên:
Vì nói cho cùng, đâu phải chỉ kiến trúc công sở, mà mỗi thể loại kiến trúc, nếu có sai lầm dẫn đến chất lượng kém một cách nghiêm trọng thì kiến trúc sư phải là người đầu tiên chịu trách nhiệm, dù không phải là người duy nhất và có quyền lớn nhất trong sự hình thành mỗi công trình kiến trúc. Bởi vì về nguyên tắc, KTS có quyền và nghĩa vụ từ chối thực hiện những gì ảnh hưởng xấu đến giá trị xã hội của công trình. Và việc thiếu mỹ quan (do lạc hậu) hoặc thiếu chất lượng mang tính bền vững của kiến trúc công sở là những yếu kém chủ yếu trong thời gian qua.
Nguyên nhân muôn đời từ trình độ làm nghề của KTS tạm thời được lướt qua. Vì một mặt, việc khắc phục phải lâu dài từ chiến lược đào tạo và môi trường làm nghề, mặt khác cũng những con người KTS đó vẫn có thể tạo dựng nhiều công trình thành công rõ ràng ở các chủng loại công trình hoặc với thành phần Chủ đầu tư khác hơn các cơ quan nhà nước.
2. Kích cỡ đã cung cấp sai làm sao may chiếc áo cho vừa?
Kích cỡ ở đây chính là nhiệm vụ thiết kế. Đối với công sở, nhiệm vụ thiết kế bắt đầu từ các Nghị định, Nghị quyết, Quy phạm…Nhà nước và các Thông tư của ngành đặc thù. Mà quan trọng nhất là quy mô, chất lượng hạng mục và tiêu chuẩn diện tích xây dựng.
2.1 Cần một quy mô hạng mục có sự đảm bảo về tính hệ thống ngành.Trong đó có hướng dẫn về những số hiệu bắt buộc và những khoảng xoay sở theo thực tế. Đối với những ngành đặc thù có hẳn bộ phận nghiên cứu định chuẩn và điều chỉnh chuẩn. Ngay những công ty lớn có hẳn bộ phận logistic chuyên cung cấp thông số chuẩn và chịu trách nhiệm về nó trong quá trình thiết kế thi công nhà văn phòng. Dù là chuẩn kỹ thuật hay chuẩn sử dụng, nhiệm vụ thiết kế công sở của ta hiện áp dụng những chuẩn rất chung của ngành Xây dựng và phụ thuộc vào Ban Quản lý dự án (thường trước đây do chủ đầu tư tổ chức, nên không tránh khỏi sự bóp méo theo ý kiến chủ quan của “Ban quản lý dự án không chuyên”) – Yếu kém của công trình sẽ lộ ra ngay khi những người làm việc tiếp theo, lại theo ý kiến riêng mà bác bỏ. Vậy là công trình kiến trúc dễ dàng chết yểu. Trong kiến trúc công sở, có một thời kỳ Chính phủ quy định số mét vuông cụ thể cho người thiết kế kiến trúc công sở. Điều đó một mặt trói buộc (vì đã có tiêu chuẩn quy phạm) một mặt, trong thực tế, tiêu chuẩn thấp một cách quá đáng, chỉ đủ làm ra các công trình xây dựng có không gian tủn mủn. Không thể góp phần gì cho một nền kiến trúc công sở thời kỳ phát triển mới nếu không muốn nói ngược lại.
2.2 Cần đầu tư đúng mức, đúng tầm để tạo ra những công trình kiến trúc công sở có giá trị sử dụng bền lâu.
Kiến trúc công sở ở mọi quốc gia chiếm phần không nhỏ trong niềm tự hào về quỹ kiến trúc của quốc gia đó. Không nói đâu xa, ở Việt Nam ta, đình chùa, miếu mạo (công trình cộng đồng) hay kiến trúc công sở thời Pháp, Mỹ… chiếm số lượng áp đảo trong quỹ kiến trúc có giá trị hiện thời. Còn công sở của thời kỳ xây dựng nhiều nhất và rầm rộ nhất từ sau 1985? Quả là một sự chênh lệch về thành quả so với đầu tư.
Hệ quả đáng buồn về giá trị kiến trúc nghèo nàn của dòng kiến trúc công sở xuất phát từ chính sách cấp phát bình quân cơ sở vật chất cho các tỉnh thành, ngành, bộ từ nội dung nhiệm vụ thiết kế cho đến suất đầu tư. Không coi trọng tính đặc thù về quy mô công năng nơi này nơi khác, mà chỉ lo ngại sự phân bì của địa phương.
Suất đầu tư cũng bình quân và bình quân rất thấp. Nếu thời Pháp thuộc những công trình công sở vẫn còn giữ giá trị xây dựng lẫn giá trị kiến trúc đến giờ là vì có suất đầu tư quá cao, so với mức sống đương thời, ước tính có thể cao hơn.
Mức đầu tư nhà phố đô thị đến mười lần. Còn thời gian qua và kể cả hiện tại, suất đầu tư nhà công sở bị kiểm soát thấp hơn mức đầu tư nhà phố trung bình của người dân. Chất lượng kiến trúc công sở thấp là điều hiển nhiên vậy.
2.3 Chính sách cấp phát bình quân là những mảnh đất tốt cho kiến trúc sinh sản vô tính phát triển.
Bởi vì đã cấp phát bình quân thì cơ chế và định mức là điều không thể thiếu. Đó là sự cần thiết hợp lý, nếu không muốn chờ đợi gì ở những giá trị sáng tạo kiến trúc hợp đẳng cấp. Sự kiểm soát càng chi tiết, càng ngặt nghèo thì tất nảy sinh những cách làm có tính “thạo việc”. Từ cân đối quy phạm định mức, đến thuyết minh, tính toán và… phong cách kiến trúc… quen thuộc. Miễn sao dự án dễ hiểu, có độ an toàn cao về mặt chính sách quản lý để nhanh chóng được chấp thuận, ghi vốn. Chính nhu cầu này đã tạo thị phần cho các loại kiến trúc na ná nhau, được sản xuất từ các Viện kiến trúc chuyên ngành (thay vì Viện phải chú tâm nghiên cứu, cải tiến tiêu chuẩn quy phạm và tiêu chuẩn kỹ thuật ngành để tham mưu kịp thời, giúp đưa lại hiệu quả sáng tạo phù hợp với công năng thực tế và hướng về tương lai). Và dù không còn chủ trương tai hại là sử dụng kiến trúc điển hình, nhưng thực tế khắp cả nước gần như các loại kiến trúc công sở điển hình được sử dụng phổ biến. Đáng buồn, các loại kiến trúc này hao hao nhau một cách cũ kỹ, lười biếng nhưng không kém phần phô diễn, ồn ào.
2.4 Sử dụng quyền lực thiếu chuyên nghiệp trong quản lý dự án công trình công sở đang là tác nhân trực tiếp tạo nên bộ mặt yếu kém của kiến trúc công sở.
Một vị bộ trưởng chỉ đạo phong cách kiến trúc cho trụ sở Bộ mình. Một bí thư tỉnh ủy quyết định chọn phương án kiến trúc kém cỏi mà giới làm chuyên môn ở Hội Kiến trúc sư Việt Nam can không thấu. Một thủ trưởng cơ quan can thiệp một cách quyết định cả chuyện màu sắc, cột vuông, cột tròn. Tất cả việc đó đã và đang xảy ra khá bình thường.
Không có quy định nào về quyền hạn đó, nhưng tập quán suy nghĩ và hành xử về “trách nhiệm lãnh đạo” đã tạo ra, tồn tại và diễn biến một cách tai hại trong quá trình hình thành các công sở.
3. Cần nhanh chóng cải thiện hiện trạng đầu tư kiến trúc công sở vì một tương lai phát triển nhiều lạc quan hơn.
Phân tích những nguyên nhân làm kiến trúc công sở lúng túng trong yếu kém cũng là mong mỏi cải thiện từ đó. Có thể thấy ngay logic của vấn đề:
3.1 Công sở là tài sản của quốc gia, nhưng là niềm tự hào của mỗi địa phương. Vậy ngoài quy mô công năng chuẩn, địa phương có quyền cân nhắc đầu tư giá trị văn hóa, du lịch, môi trường… một cách hợp lý do Hội đồng nhân dân địa phương quyết định.
3.2 Cần có tổ chức thống nhất quản lý chuẩn mực việc đầu tư công sở, độc lập với sở thích riêng của người hưởng thụ (kể cả người lãnh đạo cao nhất có tính nhiệm kỳ). Tổ chức này có mục tiêu nghiên cứu, đầu tư, giữ gìn và phát huy giá trị tài sản của kiến trúc quốc gia từ trung ương đến địa phương, bộ ngành tới cơ sở.
3.3 Không nên có suất đầu tư cứng nhắc. Quyết định đầu tư giá trị gia tăng ngoài công năng chuẩn cho kiến trúc công sở là một quyền hạn, đồng thời trách nhiệm của Hội đồng nhân dân địa phương phải cân đối hợp lý với đóng góp thực tế của địa phương đối với quốc gia. Điều này vừa là khích lệ với địa phương năng động vừa khống chế đối với địa phương dựa dẫm ngân sách, tiêu pha không tiết kiệm.Tóm lại, trong xu thế kinh tế thị trường và hội nhập vào dòng chảy kinh tế bền vững và đa cực, giá trị quản lý đầu tư kiến trúc công sở cần được chuyên môn hóa và chuẩn hóa tốt hơn. Mặt khác, cần nghiên cứu mở thêm các kênh giá trị gia tăng về văn hóa, nghệ thuật, du lịch… mà địa phương sẽ được tạo điều kiện và quyền lợi đóng góp thêm vào công trình. Có vậy, người làm kiến trúc mới thoát được vùng trũng chất lượng thấp hiện nay, có nhiều điều kiện và cơ hội thật sự để có thể va chạm với những công trình kiến trúc công sở có giá trị dài lâu như nó luôn đáng được như thế.
* Bài viết trong Hội thảo : “Những biểu hiện hình thức chủ nghĩa trong Kiến trúc công sở thời kỳ đổi mới”.HN 11/2007 Ảnh trong bài: Viện Nghiên cứu Kiến trúc - Hội KTSVNKTS.Nguyễn Văn Tất (Tạp chí KTVN số 11 năm 2007)
* TẠI SAO CÔNG SỞ LẠI THÍCH PHONG CÁCH KIẾN TRÚC CỔ ĐIỂN PHƯƠNG TÂY?
Vấn đề mấu chốt là tư tưởng “Làm quan”. Tư tưởng này chi phối tất cả. Làm quan là phải biểu hiện quyền lực, phải oai vệ, vĩ đại và đáng kính nể.
Trước đây người Pháp đã xây dựng nhiều công sở ở Việt Nam theo phong cách cổ điển. Tuy nhiên họ rất có ý thức trong việc cân nhắc khi sử dụng phong cách này. Tại vị trí trụ sở UBND Hà Nội bây giờ trước đây là Toà Thị chính của thực dân Pháp. Với quyền lực bao trùm cả Đông Dương của chính quyền thực dân mà họ chỉ làm toà thị chính của thủ đô Hà Nội rất khiêm tốn. Đó là một ngôi nhà hai tầng nằm lùi sâu vào trong, xa bờ hồ Hoàn Kiếm. Việc làm này có hai tác dụng là với hình thức bé nhỏ khiêm tốn, cơ quan hành chính không gây nên sự sợ hãi cho công chúng khi đến tiếp xúc, hơn nữa công trình nhỏ, bé, thấp và xa bờ hồ đã không phương hại đến cảnh quan của hồ Hoàn Kiếm vốn đã nhỏ bé rồi. Rất đáng tiếc là hai bài học này chúng ta cũng không học được.
- Trước hết rất tốn tiền của nhân dân vì to lớn đồ sộ và nhiều hoạ tiết phù điêu tượng đài, gờ chỉ, hoa văn ….
- Sau nữa là chính tiền của ấy lại dùng để hù doạ, trấn át tinh thần của người dân đến cửa quan. Ngôi nhà trụ sở đã làm cho dân xa những “người đầy tớ” của mình. - Các công sở thường to lớn, ở vị trí dễ nhìn, dễ thấy nên ảnh hưởng của hình dáng phong cách nghệ thuật đến người dân là đáng kể. Nếu đẹp nó sẽ tuyên truyền cái đẹp ấy cho nhân dân, nếu xấu cũng sẽ ảnh hưởng xấu cho nhân dân..
- Với phong cách kiến trúc cổ điển Phương Tây, các công sở ở ta đã thực sự tuyên truyền cho việc “nhái cổ” cho “Hội chứng kiến trúc Pháp” lan tràn thành một bệnh dịch khắp trong nước đến tận những ngôi nhà dân ở nông thôn.
- Hậu quả lớn nữa là ảnh hưởng xấu đến hình ảnh Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế. Các khách du lịch luôn hỏi. Đây là kiến trúc Việt Nam ư? Làm thời nào đấy? Mới làm à? Sao lại là sự chắp vá các chi tiết cổ điển phương Tây ? Thế Việt Nam không có truyền thống kiến trúc à?
Thái độ của giới kiến trúc Việt Nam đã nhiều lần phát biểu lên án “hội chứng kiến trúc Pháp” các bệnh “nhái cổ” “giả cổ” kiến trúc Phương Tây, phê phán các công trình kiến trúc công sở sắp làm theo chiều hướng đó trên các phương tiện truyền thống và trên các cuộc hội nghị, hội thảo khoa học - thái độ đó còn rõ rệt hơn khi trao giải thưởng kiến trúc cho công trình trung tâm hành chính quận 10 ( số 545 đường Nguyễn Tri Phương, quận 10 TP Hồ Chí Minh) do kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất thiết kế. Đó là một công trình nhỏ, 2 tầng khiêm tốn nhưng hiện đại với mặt bằng cong, với cửa lấy ánh sáng từ trên mái. Công trình vẫn đường hoàng chắc khoẻ với các mảnh tường phân vị dọc nhưng lại giản dị thân mật. Người dân đến đây sẽ thấy thoải mái với vẻ cởi mở và thân thiện của một công sở của chính quyền nhân dân.
Hiện tượng này đã được giới kiến trúc sư (KTS) cảnh báo nhưng đến nay mọi người vẫn bó tay.
Thương hiệu hàng huyện
Theo tài liệu khảo sát của Viện Kiến trúc (Hội KTS VN) ở 7 tỉnh, thành: Hà Nam, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hưng Yên, Yên Bái, Hà Nội và Bắc Ninh, gần 70% kiến trúc công quyền mới xây mắc bệnh phục cổ và lỗi thời. Chưa cần nói đến tính nguyên thức của các xu hướng chính thống mà một số kiến trúc công quyền bắt chước; chưa cần phân tích một cách chính xác các biểu hiện kiến trúc rất ngô nghê và trưởng giả của các “thương hiệu hàng huyện” này, chúng ta đã thấy một sự lãng phí tiền của rất lớn , một sự tụt hậu và lỗi thời của một số kiến trúc trụ sở: UBND, HĐND, tỉnh ủy, sở, ban, ngành...
Ở các kiến trúc nói trên, rất ít chủ đầu tư, KTS có ý định áp dụng vật liệu và công nghệ hiện đại ở các công trình này. Trong khi đó, họ luôn cho rằng các kiến trúc công quyền mà họ đề xướng là “ biểu tượng” của chính quyền địa phương. Chẳng lẽ chính quyền địa phương và các bộ trung ương lại đồng tình với các biểu tượng lỗi thời đó?
Không gian công sở: quyền uy hay phục vụ?
Tính “phục cổ - kiến trúc phương Tây” ở các trụ sở công quyền mới này, còn hiện rõ trong các quan niệm tổ chức không gian công sở.
Nếu công sở thời hiện đại là cởi mở, là dung hợp, là liên kết, là không gian rộng, là phục vụ - ngược lại, cách bố trí không gian làm việc của một số công sở hiện nay lại là khép, khoang nhỏ, mang tính quyền uy hơn là phục vụ dân.
Quan niệm công sở thể hiện một quyền uy nào đó trong cộng đồng và cảnh quan, là một quan niệm lỗi thời và bất hợp với xã hội hiện đại. Xã hội hiện đại là đa thức và tương tác của các quan hệ dân chủ chứ không cấp quyền mệnh lệnh.
Mầm bệnh
“Lâm sàng” mà nói, KTS là những virus chính gây ra căn bệnh “phục cổ và lỗi thời” này. Vì sức ép, chiều lòng chủ đầu tư, rất ít người dám nói “không” với kiểu kiến trúc này. Cũng có nhiều KTS chỉ đơn giản nghĩ làm như vậy là nhanh, là được việc nên truyền bá kiểu nhại cổ này một cách vô ý thức.
“Bệnh học” mà nói thì các chủ đầu tư, các cơ quan phê duyệt mới là nguyên nhân chính.
Văn hóa kiến trúc thật sự là vấn đề cấp thiết của chúng ta. Nếu không giải quyết vấn đề gốc này thì căn bệnh còn nan y lắm!Kiến trúc công sở luôn tọa lạc”ở những vị trí vào loại đẹp nhất, luôn chứng tỏ sự uy nghi, bề thế; luôn có mục tiêu trở thành “kiểu mẫu”, “niềm tự hào” của tỉnh ta, huyện ta...
Với loạt bài này, KTS Đoàn Khắc Tình- nhà phê bình kiến trúc- sẽ đưa chúng ta dạo qua một loạt các kiến trúc công sở, văn phòng với những lời bình dí dỏm và sắc bén và trên tinh thần xây dựng từ góc độ của một nhà chuyên môn.
Từ thiếu ý tưởng đến chơi trội
(Bình về kiến trúc công sở xã/phường, quận/huyện)
Chính quyền càng vì dân thì công sở phải là nơi giao tiếp cởi mở hơn và làm được nhiều việc cho người dân.
Về hình thức, công sở cần kể được nhiều chuyện về năng lực xã hội đương đại, tôn vinh một xã hội cường thịnh, có nề nếp, có một mặt bằng dân trí tin cậy, chứ không phải biểu tượng thuần tuý cho tuyên ngôn của một thể chế. Việc xé lẻ, dùng ít tiêu chí sẽ giúp kiến trúc công sở dễ dân chủ hoá hình thức và có thể “chừa lối” để hình thức của nó kết thân với các kiến trúc khác trong đô thị.
UBND Phường Phương Liệt, Quận TX-HN: Xử lý chi tiết còn vụng về. Động vào chỗ nào cũng thấy thiếu bàn tay nghiêm chỉnh của KTS. Có lẽ chưa thể gọi đây là công sở |
Hiện nay, hình thức trụ sở xã, phường thường thiếu ý tưởng rõ rệt. Cùng lắm dập theo mẫu từ xã bên, huyện nhà (vốn đã không mẫu mực rồi). Có trường hợp cả chủ đầu tư và nhà thiết kế lại rủ nhau “phóng to” một ngôi nhà cho thành trụ sở. Thực chất, không phải vì nghèo mà phường, xã không lo được dăm bảy gian trụ sở. Ở xã, giá như ông (bà) Chủ tịch lúc bắt tay xây dựng trụ sở ủy ban, biết nghĩ đến ngôi đình làng - kiến trúc quá khứ đã nói được nhiều điều xã hội, thì đắn đo được nhiều mặt hơn, trước khi tư vấn nhà chuyên môn. Quan trọng là thuê vẽ kiểu đàng hoàng: “bình cũ rượu mới” hay “hiện đại”, “hậu - hiện đại” gì thì tuỳ. Chắc rằng trụ sở sẽ có ý tứ rõ ràng, đáng đồng tiền bát gạo. Không nên thanh minh việc không tìm được người vẽ kiểu cho uỷ ban xã, phường như hoàn cảnh nông thôn thiếu bác sĩ. Riêng trụ sở phường, kiến trúc sạch sẽ, duyên dáng giữa lòng đô thị là được. Lưu ý, kiến trúc trụ sở phường, xã hiện nay vẫn gần như “ngoài vòng pháp luật”. Các nhà quản lý nên quan tâm và nghiêm khắc hơn.
H 3- UBND quận Tây Hồ: Người ta dễ mất cảm tình ngay từ cổng chính và sảnh vào từ 2 bên cánh nhà. Mặt đứng thì dàn trải có vẻ như làm ‘cho xong chuyện’. Dùng 2 mái đua chồng nhau là chuyện hóc búa, vì tay nghề phải thật chín chắn thì mới bình ổn được chúng trên cao. Còn hồi nhà, có lẽ chính người thiết kế cũng không biết mình vẽ gì. |
Các trụ sở hàng tỉnh hiện nay nổi cộm nhiều chuyện đáng nói, mà quá lời gọi là “loạn”.Từ cấp tỉnh trở đi, tiềm lực bạc tiền khá hùng hậu, xây dựng phát sinh bao nhiêu cũng đủ (kể cả làm gấp rưỡi diện tích sàn cần thiết hay kiến thiết sân tàu bay trên nóc nhà uỷ ban…) Các địa thế đẹp nhất của thị xã, thành phố được dành cho những công trình này. Các nhà quản lý cao cấp nhất của địa phương, ban ngành luôn tiên phong trong xây dựng trụ sở, luôn là những “Mạnh thường quân”.
Các tỉnh đua nhau lấy cảm hứng lịch sử: Nhà quốc hội, dinh Toàn quyền, Bắc bộ phủ, nhà Đấu xảo, toà Đốc lý Sài gòn, dinh Độc lập, toà Đại sứ Mỹ, kể cả…Nhà hát lớn(?!) để xây trụ sở. Thậm chí, như tôi đã đề cập đến trên báo TT&VH cuối tuần số ra gần đây, Thiết kế trụ sở UBND và HĐND tỉnh Đắc Lắc ( 2004) sao chép một cách lộ liễu” trụ sở UBND thành phố HCM.Khó có thể tưởng tượng, kiến trúc này có chỗ đứng ở Tây Nguyên.
Thiết kế trụ sở UBND và HĐND tỉnh Đắc Lắc. 2004 “Sao chụp một các lộ liễu” trụ sở UBND TP. HCM (ảnh trên) |
Lại có tỉnh, xây dựng trụ sở UBND và cơ quan Tỉnh uỷ là hai ngôi nhà giống hệt nhau như tỉnh Nam Định.
Mái manchard, lệ bộ kiểu dáng thời Pháp thuộc (đã bị làm méo
mó đi nhiều) - những thứ nhàm chán trong kiến trúc đương đại
của các đô thị lớn, được chuyển “nguyên đai nguyên kiện” về
thành Nam. 2 kiến trúc công sở cao 6 tầng, chạy dài gần 70m,
giống hệt nhau đến từng chi tiết
Chẳng lẽ lại hời hợt như hình ảnh kiến trúc này?!
Sở Y tế Cao Bằng Loạn quá. Chắc người chiêm ngưỡng không biết đâu là lẽ phải. |
Sở XD Cao Bằng Một cố gắng vươn tới kiến trúc sạch ở vùng sâu vùng xa, nhưng sảnh và mái hiên lạc lõng đến khó hiểu. |
Kiến trúc trụ sở Văn phòng Quốc hội |
Trụ sở Bộ Công thương Công trình cũ làm lại như thế này là nghiêm túc. Khoẻ khoắn và trong sáng hơn trụ sở nhiều bộ khác |
Phân viện KHHS Bộ CA tại Đà Nẵng (2005) |
Tay nghề sáo mòn của KTS dễ là nguyên nhân chính gây tổn hại đến vẻ đẹp hiện đại của loại kiến trúc này.
Giá trị của kiến trúc Pháp tại Hà Nội
Trong quá trình hình thành và phát triển, kiến trúc Hà Nội có dấu ấn rõ nét của các công trình kiến trúc Pháp, ảnh hưởng trong các vấn đề tổ chức không gian, kỹ thuật - vật liệu xây dựng và hình thái biểu hiện. Các ảnh hưởng này có những mặt tích cực và cũng không ít mặt tiêu cực. Việc đánh giá và phân loại các công trình kiến trúc Pháp tại Hà Nội theo tiêu chí của những ảnh hưởng này là hết sức cần thiết, để từ đó có thể rút ra các bài học kinh nghiệm cho công tác thiết kế, xây dựng, nghiên cứu và bảo tồn.
Kiến trúc và văn hóa có quan hệ khăng khít, nhân quả. Điều đó thể hiện trong kiến trúc Pháp ở Hà Nội. Ở giai đoạn đầu của thời kỳ thực dân là sự áp đặt văn hóa Pháp thông qua kiến trúc du nhập. Ở giai đoạn sau, chính sự khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây đã tạo ra những điều kiện và cơ sở thuận lợi cho quá trình chuyển hóa của kiến trúc Pháp ở Hà Nội với nét riêng, trong đó đặc trưng văn hóa, xã hội và môi trường tự nhiên bản địa có vai trò quan trọng.
1. Đặc điểm kiến trúc Pháp ở Hà Nội giai đoạn 1900 - 1920
Giai đoạn từ 1900 đến 1920, thời kỳ tiến hành khai thác Đông Dương lần thứ nhất, các công trình của Pháp tại Hà Nội được thiết kế theo phong cách Tân cổ điển. Đây là phong cách hàn lâm thịnh hành cùng thời ở Pháp. Nguyên tắc bố cục dựa trên quy luật đối xứng nghiêm ngặt với sự chú ý nhấn mạnh diện trung tâm hay hai khối nhô ở hai bên và dựa trên cách thức, chi tiết trang trí kiến trúc theo tinh thần cổ điển
Trong giai đọan này, KTS nổi bật nhất là Henri-Auguste Vildieu. Những công trình tiêu biểu là:
Phủ Chủ Tịch
Phủ Toàn Quyền (nay là Phủ Chủ tịch) xây dựng năm 1902. Công trình mang phong cách cổ điển Châu Âu do KTS Vildieu thiết kế, xây dựng mất hơn 5 năm.
Nhà hát lớn Hà Nội
Nhà hát lớn Hà Nội khởi công năm 1901 và xây dựng mất 10 năm, theo đồ án thiết kế của các KTS Broger và Harioy. Công trình có quy mô lớn với phòng khán giả gần 900 chỗ ngồi và một hệ thống các không gian phụ rất phong phú theo kiểu các nhà hát châu Âu đương thời, phong cách kiến trúc cổ điển châu Âu.
Nhà Khách Chính Phủ
Trụ sở Tòa án nhân dân tối cao nước CHXHCN Việt Nam
Số 48 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Tel: 84.4.9349987. Fax: 84.4.8269698
Tòa án tối cao: Trên đường Lý Thường Kiệt, có khối tích uy nghi đồ sộ thể hiện rõ sức mạnh của quyền lực, công trình gây ấn tượng ở tỷ lệ hài hòa của thức kiến trúc cổ điển châu Âu, cầu thang chính đặt ở bên ngoài và đối xứng nhấn mạnh cảm cảm giác bề thế, bộ mái lợp đá phiến (Aridoise) màu xám tạo ra bên trong một tầng áp mái cũng là hình thức kiến trúc tiêu biểu của Pháp. Công trình được thực hiện theo thiết kế của KTS Vildieu, xây dựng cùng thời với nhà hát thành phố.
Ở giai đạn này, các ảnh hưởng mang tính cưỡng bức, chưa có tính dung hòa thích nghi. Những công trình xuất hiện một cách mới lạ từ hình thái cho tới cấu trúc và các giá trị về thẩm mỹ tuân theo quy hoạch chặt chẽ đã khiến cho Hà Nội có những biến đổi căn bản về hệ thống các công trình công cộng và không gian đô thị. Dù chưa có được sự thích nghi với các điều kiện bản địa, nhưng sự thống nhất và triệt để trong việc sử dụng một xu hướng kiến trúc chung là phong cách cổ điển đã tạo ra cho Hà Nội một quần thể các công trình trung tập đẹp mới lạ là cơ sở cho quá trình phát triển sau này. Tuy nhiên, việc không tôn trọng các giá trị văn hóa bản địa khiến cho quần thể này cách biệt, thiếu sự hài hòa trong tổng thể không gian cũng như tổng thể xã hội của Hà Nội, đòi hỏi phải có những thay đổi thích ứng.
Từ năm 1920 đến năm 1954, người Pháp tiến hành khai thác Đông Dương lần thứ hai, mối giao lưu về kiến trúc và văn hóa giữa hai nước Pháp và Việt Nam trở nên thường xuyên hơn, làm xuất hiện một phong cách kiến trúc mới - phong cách kết hợp. Đó là phong cách hướng về những đặc điểm văn hóa, kiến trúc và điều kiện thiên nhiên, khí hậu của địa phương trong sáng tác kiến trúc. KTS E. Hebrard là một trong những người tiên phong trong xu hướng kiến trúc này. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của một số công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại do các KTS Pháp thiết kế, phần nào thể hiện sự hòa nhập của kiến trúc bản địa với thế giới.
Các công trình để lại dấu ấn của giai đọan này là:
Bảo tàng lịch sử
Bảo tàng Viễn Đông Bác Cổ, KTS E. Hebrard, là một công trình văn hóa vào loại tiêu biểu nhẩt và là một công trình kiến trúc được đánh giá là có nhiều thành công trong xử lý không gian kiến trúc gây ấn tượng sâu sắc về một kiểu kiến trúc phù hợp với phương Đông. Công trình được xây dựng trong 4 năm (1928 - 1932).
Viện Pasteur là Viện vệ sinh dịch tễ, là một công trình có phong cách kiến trúc Phương Đông rõ rệt nhờ ở bộ mái có kết cấu phong phú với nhiều lớp mái chính, mái phụ cũng như sự phân đoạn và phân mảng hài hòa giữa phần đặc và phần rỗng với nhiều chi tiết trang trí hài hòa và tinh tế… Công trình được xây dựng theo đồ án của KTS E. Hebrard xây dựng xong vào năm 1930.
Nhà thờ Cửa Bắc, KTS E. Brard, với tổ hợp không gian kiến trúc không nhấn mạnh sự đối xứng mà có sự biến hóa rất hài hòa với không gian xung quanh, nhưng vẫn đảm bảo sự trang nghiêm và có phần tĩnh mịch, gây được ấn tượng về một sự siêu thoát. Như nhiều sáng tác khác của Hebrard, kiến trúc nhà thờ Cửa Bắc thể hiện sự hòa hợp với khung cảnh nhiệt đới, với văn hóa phương Đông. Đây là một công trình của kiến trúc thời kỳ 1925 - 1930.
Nhà thờ Cửa Bắc
Câu lạc bộ Thủy quân (nay là Trụ sở Tổng cục TDTT) ở đường Trần Phú do KTS Cruize thiết kế và xây dựng năm 1939. Đây thực sự là một thể nghiệm đáng lưu ý của phong cách kiến trúc kết hợp.
Cuối cùng là phong cách kiến trúc hiện đại xuất hiện ở Hà Nội trong những năm 1930. Đây là phong cách kiến trúc khai thác giá trị thẩm mỹ trên các nguyên tắc tổ hợp lập thể và thoát ly khỏi những nguyên tắc trang trí cầu kỳ, phức tạp. Nhà Bưu điện, trụ sở hãng Shelll (nay là trụ sở Bộ Khoa học và Công nghệ), Câu lạc bộ thể thao Ba Đình, ngân hàng Đông Dương (nay là Ngân hàng Quốc gia Việt Nam)… là những công trình tiêu biểu cho xu hướng kiến trúc hiện đại.
Các công trình kiến trúc Pháp tại Hà Nội trong giai đọan này dần tìm cách thích nghi với các điều kiện môi trường xã hội tự nhiên và bản địa, dẫn tới sự định hình rõ nét của một phong cách mới phù hợp với những đặc thù của Hà Nội. Bên cạnh đó, xu hướng kiến trúc hiện đại phương Tây cũng đã bắt đầu có mặt với sự đóng góp bằng một loạt các công trình khác nhau. Việc dung hợp các yếu tố kiến trúc khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông Tây dần giải quyết được sự thích nghi cho các xu hướng đã có thâm niên tồn tại ở Hà Nội, nhưng đối với các xu hướng mới thì vẫn còn độ vênh nhất định, chưa tìm được tiếng nói chung với các điều kiện bản địa để tạo ra nét đặc trưng riêng.
3. Nhận xét
Có thể nói, ảnh hưởng của kiến trúc Pháp ở Hà Nội diễn ra có quy luật, bộc lộ những giá trị tích cực nhất định, đi từ cưỡng bức, cộng sinh, chuyển hóa mềm mại và có đặc trưng phù hợp với đặc điểm tự nhiên và nhân văn Hà Nội, bao chứa cả tính khách quan của thời đại và tính chủ quan của các cá nhân. Ảnh hưởng ấy bộc lộ rõ rệt qua sự kết hợp của của phương pháp tư duy phân tích (có nguồn gốc phương Tây) với phương pháp tư duy tổng hợp mang tính cân bằng dung hòa (có nguồn gốc phương Đông), thể hiện trong mọi khía cạnh của quá trình tác nghiệp, tạo lập nên một công trình kiến trúc.
Kiến trúc Pháp ở Hà Nội đã trở thành một qũy di sản kiến trúc mang ý nghĩa lịch sử, kết hợp hài hòa với các thành phần kiến trúc và cảnh quan đô thị truyền thống. Quỹ di sản ấy cần có được các tiêu chí nhận diện chính xác và đặt ra các phương thức ứng xử phù hợp phục vụ cho mục tiêu bảo tồn, cải tạo các giá trị nguyên gốc cần lưu giữ.
Quá trình ảnh hưởng của kiến trúc Pháp tại Hà Nội cùng với những bài học và di sản của nó là một tiền đề thuận lợi cho kiến trúc Việt Nam tiếp cận với kiến trúc hiện đại phương Tây trong xu thế hội nhập quốc tế tất yếu hiện nay.
Nếu anh chị nào có nhu rất mong được hợp tác cùng với đơn vị thi công khác chuyên thi công nhà xưởng uy tín tp hcm
ReplyDelete