MƯỜI BỐN CON ĐẬP VÂN NAM: SÔNG MEKONG TRƯỚC NGUY CƠ
Gửi Nhóm Sông Cửu Long
Khi được hỏi về mối quan tâm của các quốc gia hạ nguồn về ảnh hưởng khai thác sông Mekong của Trung Quốc, thì Wang Xiaodong chuyên viên Viện Nghiên Cứu Hoa Lục thản nhiên đáp: “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.” [7]
NGÔ THẾ VINH
MẶT TRỜI NHỎ TRÊN SÔNG MEKONG
Các dự án khai thác sông Mekong của Trung Quốc đã có từ thập niên 70 trong thời kỳ còn bức màn sắt cô lập đất nước này với thế giới bên ngoài. Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa mãi tới năm 1989 người ta chỉ mới được biết sơ qua các dự án thủy điện Vân Nam qua một cuốn sách duy nhất của Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn bản tiếng Trung Hoa dày hơn 600 trang nhan đề “Lan Thương Giang: Tiểu Thái Dương” gồm 45 bài viết về các đề tài khác nhau nhưng tựu chung là chỉ đề cập tới những lợi lộc về thủy điện và nguồn nước của chuỗi 7 con đập bậc thềm trên sông Mekong tỉnh Vân Nam với tổng số công suất lên tới 15,400 Megawatt tổn phí dự trù là 7.7 tỉ $US. [2]
Nhưng đó là những con số của thập niên 70. Bây giờ là năm 2002, tưởng cũng nên cập nhật hóa _ Hiroshi Hiro [6], một chuyên gia uy tín về sông Mekong của Nhật Bản cho biết theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam, thì không phải chỉ có BẢY mà con số đã lên tới MƯỜI BỐN con đập trên dòng chính khúc thượng nguồn sông Mekong chưa kể vố số những con đập phụ lưu.
Tên 14 con đập theo thứ tự từ bắc xuống nam đó là 1/ Liutongsiang, 2/ Jiabi, 3/ Wunenglong, 4/ Tuoba, 5/ Huangdeng, 6/ Tiemenkan, 7/ Guongguoqiao / Công Quả Kiều, 8/ Xiaowan / Tiểu Loan_ khởi công 2001, 9/ Manwan / Mạn Loan_ hoàn tất 1993, 10/ Daichaoshan / Đại Triều Sơn, 11/ Nuozhado / Nọa Trát Độ, 12/ Jinhong / Cảnh Hồng, 13/ Ganlanba / Cảm Lãm Bá, 14/ Mengsong / Mãnh Tòng .
Khúc sông Mekong từ Tây Tạng xuống Vân Nam chảy rất siết [nên có tên Lan Thương Giang / Con Sông Xanh Cuộn Sóng] với rất nhiều ghềnh thác có nơi cao hơn 600 mét . Với độ dốc ấy, dòng chảy siết ấy được coi là lý tưởng cho việc xây cất chuỗi những con đập thủy điện khổng lồ, lại thêm lợi điểm nữa là vị trí các con đập trên vùng thưa dân nên không phải tốn kém nhiều trong việc tái định cư các nạn nhân trong vùng xây đập.
Tuy đã có kế hoạch rất hấp dẫn khai thác sông Mekong rất sớm từ những năm 70 nhưng vì thiếu ngân sách nên mãi tới năm 80 con đập Manwan / Mạn Loan đầu tiên cao 99 mét với bức tường thành cao 35 tầng mới được khởi công và 13 năm sau thì xây xong và ngay sau đó cảnh thiếu điện tối tăm của Vân Nam và thủ phủ Côn Minh đã trở thành quá khứ. Khi hoàn tất chuỗi các con đập Vân Nam này, Trung Quốc sẽ dư khả năng điện khí hóa toàn các tỉnh phía nam và phía đông cận duyên của Trung Hoa. Cuốn sách cũng đề cập tới tiềm năng sông Mekong như một thủy lộ để đi về phương nam.
Nhưng điều đáng nói là cả cuốn sách không có bài viết nào nghiên cứu về hậu quả “có thể chấp nhận được hay không” của chuỗi các con đập ấy đối với 5 nước vùng hạ lưu là Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Trung Quốc thì luôn luôn giấu kín nhẹm các kế hoạch khai thác sông Mekong của mình – như một thứ bí mật quân sự. Lê Quang Minh, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ Đồng Bằng Sông Cửu Long đã phải than thở: “Thật khó để có được thông tin từ phía Trung Quốc. Điều ấy khiến chúng tôi thật sự lo ngại”.[4]
Thản hoặc nếu có chút hé mở ra thì Bắc Kinh chỉ toàn nói tới những điều tốt đẹp các khía cạnh màu hồng với hiệu quả tích cực của các con đập “mang tính giai thoại – anecdotal” chứ không phát xuất từ một cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh nào. Chẳng hạn theo họ thì chỉ với ba con đập đầu tiên Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng có thành vách cao với các hồ chứa theo mùa / seasonal reservoirs, lấy nước tối đa trong Mùa Mưa và xả nước trong Mùa Khô sẽ có tác dụng chống lũ lutï và chống hạn cho các quốc gia dưới nguồn [sic].
Nhưng với những người Cam Bốt hiểu biết thì thấy ngay rằng nếu không còn con lũ hàng năm từ thượng nguồn đổ về để tạo dòng chảy ngược từ con sông Tonlé Sap vào Biển Hồ [như trái tim và sự sống của Cam Bốt] thì rõ ràng đó là tương lai của một Biển Hồ chết . Riêng với Đồng Bằng Sông Cửu Long Nam Việt Nam thì các con sông Tiền sông Hậu sẽ không còn phù sa (nguồn phù sa chủ yếu từ thượng nguồn bị giữ lại trong các hồ chứa Vân Nam) mà cả cạn nguồn nước ngọt để thay thế bằng một biển mặn vì lòng sông thấp hơn mặt biển và rồi ra sẽ chẳng còn đâu vựa lúa nuôi sống cả nước và cũng không còn đâu cả một Nền Văn Minh Miệt Vườn. Trung Quốc đang ngang ngược và độc quyền khai thác con sông Mekong bằng cái giá của hạnh phúc an sinh và cả sống còn của hàng trăm triệu cư dân nơi các quốc gia hạ nguồn.
SÔNG MEKONG NHƯ MỘT CON SÔNG QUỐC TẾ.
Theo định nghĩa chính trị địa dư (geopolitics), một con sông được coi là quốc tế khi: (a) chảy qua hai hay nhiều quốc gia, hoặc (b) tiêu tưới cho lưu vực [drainage basin] của hai hay nhiều quốc gia hoặc (c) liên quan tới vấn đề biên giới thuộc lãnh vực công pháp quốc tế hay (d) là phương tiện giao thông đi lại bằng một thỏa thuận quốc tế.
Khảo sát từng khía cạnh trên với con sông Mekong: (a) Chảy qua 7 quốc gia: Tây Tạng, Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam trước khi đổ vào Biển Đông. (b) Tiêu tưới cho vùng Lưu Vực Lớn Sông Mekong (Greater Mekong Subregion) bao gồm Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam. (c) Con sông Mekong trong quá khứ đã từng liên quan tới vấn đề tranh chấp biên giới. Hơn 100 năm trước (1893) Pháp nhân danh sự toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Đông Dương, đã đưa tàu chiến tới và ra tối hậu thư bắt vua Thái phải nhượng lại tất cả đất đai thuộc phía đông sông Mekong; rút cuộc Thái chỉ còn khúc sông 750 km như là đường biên giới thiên nhiên với nước Lào. (d) Di chuyển trên sông Mekong như một thủy lộ quốc tế lẽ ra là hoàn toàn tự do theo bộ luật La Mã nhưng trên thực tế tự do ấy chỉ có nghĩa rất tương đối bởi vì khi con sông chảy vào nội địa một quốc gia nào thì quyền tự do giao thông vẫn bị hạn chế hay cả bị tước đoạt tùy theo cách diễn dịch của quốc gia liên hệ.
[Một ví dụ, ngay giữa cuộc Chiến Tranh Việt Nam_ theo New York Times, ngày 20 tháng 9 , 1964 do tình báo của chính phủ Sài Gòn ghi nhận là Cộng Sản Bắc Việt đã chuyên chở vũ khí bằng đường sông Mekong xuống Nam Vang rồi từ đó đưa vào miền Nam Việt Nam khiến tướng Nguyễn Khánh lúc đó là thủ tướng tuyên bố cần phải hạn chế lưu thông trên sông Mekong nếu như Cam Bốt vẫn tiếp tục chánh sách thiếu thân thiện với Nam Việt Nam].
Do hội đủ tất cả các Đặc tính Chính trị Địa dư ấy, sông Mekong đúng nghĩa là một Con Sông Quốc Tế _ International River.
Wang Xiaodong_ một chuyên viên Viện Nghiên Cứu Hoa Lục ở cái tuổi 45_ như nguồn chất xám của Hoa Lục, không thể không biết con sông Mekong là một “con sông quốc tế” nhưng khi được hỏi về mối quan tâm và lo ngại của các quốc gia hạ nguồn về ảnh hưởng của chuỗi những con đập bậc thềm Vân Nam thì anh ta thản nhiên đáp: “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.”[7]
Wang Xiaodong biểu trưng cho một tinh thần quốc gia cực đoan và bá quyền của Trung Quốc dựa trên sức mạnh trong khung cảnh một thế giới bước vào “toàn cầu hóa / globalization”. Như vậy thì làm sao lục địa Á Châu có thể có được một tương lai hòa bình.
NGUY HẠI MÔI SINH CỦA CHUỖI ĐẬP VÂN NAM
Trong chiến lược khai thác khúc thượng nguồn con sông Mekong, Bắc Kinh chỉ có một mối bận tâm duy nhất là điện khí hóa các tỉnh vùng tây nam của Trung Quốc [6].
Từ kinh nghiệm ngót một thế kỷ qua của thế giới và chính Trung Quốc về khai thác thủy điện, mọi người đều biết rất rõ rằng khi ngăn chặn dòng sông để xây đập như với những sông Nile, Danube, Colorado, Mississipi, Hoàng Hà và Dương Tử… bao giờ cũng tạo nên một chuỗi những hậu quả và ngày nay thì vẫn cứ là “Những Bài Học Không Học ấy_ Unlearned Lessons” [1] đối với con sông Mekong.
Ảnh hưởng trên vùng xây đập: ngoài việc phải tái định cư dân chúng đang sống trên vùng xây đập, các công trình xây cất quy mô sẽ tàn phá sinh cảnh, phá hủy môi trường sống của các loài thú. Nước tù đọng từ các hồ chứa làm gia tăng các bệnh về nước_ water-borne diseases (sốt rét, sốt xuất huyết, bệnh sán gan do sên); nước hồ bốc hơi gây thay đổi khí hậu. Ngoài ra nước hồ chứa có thể bị rỉ thoát, làm đất xụp.
Và kinh hãi hơn nữa là các trận “động đất do hồ chứa_reservoir triggerred seismicity”, Các nhà khoa học địa chất khảo sát những con đập lớn nhận thấy sức nặng thường trực của khối nước khổng lồ trong hồ chứa đã gây ra tình trạng mất cân bằng địa chấn, gây đứt đoạn lớp địa từng dưới đáy có thể làm vỡ cấu trúc toàn con đập.
Đã có nhiều tường trình về các trận động đất gây ra do hồ chứa làm chấn động dư luận thế giới. Như hồ chứa Đập Aswan High_ Ai Cập khi lấy đầy nước; thì sau đó các trận động đất M4.7_ 3/82, M4.3_ 2/83 đã xảy ra trên một vùng đất mà trước 1980 chưa hề có ghi nhận một cơn địa chấn nào. Tại Trung Quốc, gần tỉnh Quảng Đông, có con đập Tân Phong Giang / Xinfengjian cấu trúc giống đập Aswan đã bị một cơn địa chấn M6.1 vào năm 1961. Các trận động đất khác do hồ chứa cũng đã xảy ra với con đập Koina_ Ấn Độ M5.5_ 9/67, M6.3_12/67 làm nứt thành đập và khiến hơn 180 người chết}. [6]
Không phải là hư cấu khi nghĩ tới tình huống trận động đất_ induced earthquake do các hồ chứa khổng lồ Vân Nam trong Lưu Vực Sông Mekong. Con người đến lúc đó đã không còn làm chủ được khoa học kỹ thuật của mình. Sức tàn phá khủng khiếp của Cơn Hồng Thủy Vỡ Đập sẽ cuốn đi bao nhiêu thành phố và bao nhiêu vạn sinh linh nơi các quốc gia hạ nguồn? Liệu đó có bao giờ là mối ưu tư của các “Công Trình Sư Đại Hán” khi hình thành dự án Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Vân Nam?
Nhưng quan trọng nhất phải kể tới một chuỗi tác hại trước mắt của những con đập đối với các nước hạ nguồn như : gây rối loạn dòng chảy, gây xói lở bờ sông, đọng muối trong đất. Làm mất nguồn phù sa như nguồn phân bón thiên nhiên do những cơn lũ hàng năm đem lại cho vùng châu thổ. Gây tổn hại về cá và ngư nghiệp bao gồm nguồn cá nước ngọt và cả hệ thủy sản nước lợ. Gây ô nhiễm nguồn nước với Điện khí hóa_ Kỹ nghệ hóa_ Đô thị hóa, trút đổ chất phế thải kỹ nghệ độc hại như chì, kẽm, cyanide từ các khu quặng mỏ rất giàu có của Vân Nam xuống sông và Đồng Bằng Sông Cửu Long luôn luôn là điểm hẹn cuối cùng. Do không còn phù sa bồi đắp, mũi Cà Mau và vùng duyên hải sẽ bị sạt lở, lại thêm lòng sông thấp hơn mặt biển, nước mặn sẽ càng ngày càng lấn sâu vào toàn vùng Đồng bằng Châu Thổ, có thể lên xa tới tận Nam Vang (cá đuối_ cá nước mặn đã vào tới Đồng Tháp).
THÊM CON ĐẬP MẸ KHỔNG LỒ TIỂU LOAN / XIAOWAN
Theo tin Asian Pulse [5] từ Côn Minh 04/12/2001: Li Jiating tỉnh trưởng Vân Nam thông báo là Trung Quốc đang rộn rịp chuẩn bị khởi công xây con đập vĩ đại Tiểu Loan / Xiaowan chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hiệp / Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử.
Đập Tiểu Loan được xây nơi khúc giữa Lan Thương Giang (tên Trung Quốc của con sông Mekong). Đây là đập thủy điện thứ ba nhưng lại là lớn nhất trong chuỗi những con đập Bậc Thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong tiếp theo sau hai con đập Mạn Loan 1500 MW, Đại Triều Sơn 1350 MW.
Đập Tiểu Loan sẽ có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng]. Tiểu Loan sẽ như một con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, chỉ riêng những con số cũng đã gây mối quan tâm lo ngại cho các nhà bảo vệ môi sinh và 5 quốc gia nơi hạ nguồn. Đây sẽ là một con “đập cao nhất thế giới” 292 mét tương đương tòa nhà chọc trời cao 100 tầng. Và theo Kou Wei giám đốc thủy lợi sông Mekong thì hồ chứa đập Tiểu Loan sẽ là “Con Đập Mẹ / Mother Dam” dung lượng lên tới 15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông Mekong – bằng tổng số dung lượng tất cả các hồ chứa tỉnh Vân Nam. Tổn phí để xây con đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US cũng là tổn phí cao nhất cho tất cả các dự án Vân Nam trong nửa thế kỷ qua. Nhiều chục ngàn công nhân đã được điều động tới để xây dựng cầu đường và các dự án yểm trợ cho đại công trình. Dự trù đập Tiểu Loan sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2010 và đạt toàn công suất năm 2013, mỗi năm sản xuất 18.9 tỉ kilowatt/giờ , phân nửa lượng điện ấy sẽ được chuyển qua Quảng Đông và các tỉnh cận duyên Trung Quốc.
Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc nơi vùng Tây Nam nghèo khó chưa phát triển nhưng lại rất giàu nguồn “than trắng”. Số lượng điện hiện giờ đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển sang các tỉnh thiếu điện miền đông. Chỉ riêng năm nay Vân Nam đã cung cấp cho tỉnh Quảng Đông 900 000 kilowatt/giờ và dự trù sẽ cung cấp 15 triệu kilowatt/giờ trong vòng 15 năm tới.
LÝ LẼ CỦA KẺ MẠNH
Dựa trên lý lẽ của kẻ mạnh, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Trung Quốc tự cho là có toàn quyền khai thác con sông Mekong với thế thượng phong là quốc gia thượng nguồn mà chẳng kể gì tới tới mối quan tâm lo lắng về thảm họa môi sinh do họ gây ra cho các nước dưới nguồn.
Năm 1995 Bắc Kinh đã dứt khoát từ chối tham gia Ủy Hội Sông Mekong để vẫn là một nước Trung Hoa “ngoài vòng kiêm tỏa” tự do muốn làm gì thì làm. Ủy Hội Sông Mekong không có Trung Quốc tham gia và hợp tác sẽ trở thành một tổ chức vô hiệu và tê liệt.
(Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về lịch sử hình thành Ủy Hội Sông Mekong. Năm 1957, Ủy Ban Sông Mekong / Mekong River Committee được Liên Hiệp Quốc thành lập bao gồm 4 nước Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam với trụ sở đặt tại Bangkok để có kế hoạch khai thác con sông Mekong không phải chỉ có tiềm năng thủy điện mà còn cả về phát triển thủy lợi, canh nông, ngư nghiệp và giao thông. Nhưng do Chiến Tranh Việt Nam lan rộng mọi nên kế hoạch khai thác sông Mekong phải đình hoãn. Đến tháng 4 năm 1995, bốn nước lại nhóm họp để thành lập Ủy Hội Sông Mekong / Mekong River Commission với trụ sở đặt tại Nam Vang nhưng với điều thay đổi rất cơ bản là không nước hội viên nào có quyền phủ quyết / veto power).
Đến năm 1997, cho dù Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn công ước liên quan tới vấn đề hợp tác phát triển bền vững và sử dụng nước trên các con sông quốc tế nhưng cũng chính Trung Quốc đã lại bỏ phiếu chống. Tháng 08 năm 2000 có thêm một Hội Nghị “ASEAN Plus Three” họp tại vương quốc Brunei, ngoài các nước thuộc Hiệp Hội Quốc Gia Đông Nam Á, còn có thêm ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn nhưng do thái độ ngang ngạnh của Bắc Kinh nên cũng không đưa tới một kết quả cụ thể nào, phá tan niềm hy vọng hợp tác của các nước hạ nguồn với Trung Quốc trong kế hoạch phát triển Sông Mekong. [4]
Trong khi đó Trung Quốc vẫn không ngừng “xây thêm – xây thêm” những con đập Vân Nam. Trung Quốc đã tự do lấy nước vào các hồ chứa khổng lồ, làm cạn dòng sông, ngăn chặn nguồn phù sa, hủy hoại nguồn cá, với tác hại lâu dài trên toàn hệ sinh thái ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu cư dân dưới nguồn. Xa hơn nữa họ còn có khả năng đổi dòng sông Mekong để có nước tưới cho những vùng đất mênh mông khô hạn của Trung Quốc và cả dùng chất nổ phá vỡ những khối đá trên sông để mở thủy lộ giao thông đi rất xa về phương nam. Điển hình là vào tháng 4 năm 2001, Trung Quốc đã ký một thỏa hiệp về thủy vận trên sông Mekong nhưng chỉ với 3 quốc gia Miến Điện, Thái Lan và Lào với kế hoạch vét lòng sông, cả dùng cốt mìn chất nổ phá tung những khối đá trên các đoạn ghềnh thác, các đảo nhỏ trên sông để khai thông mở rộng đường sông cho tàu lớn trọng tải từ 500-700 tấn có thể di chuyển từ cảng Simao Vân Nam xuống Chiang Khong Chiang Sean Thái Lan xuống thẳng tới Vạn Tượng thủ đô nước Lào. Trong khi Việt Nam và Cam Bốt là hai quốc gia cuối nguồn, trực tiếp chịu ảnh hưởng của kế hoạch ấy thì bị gạt ra ngoài. [9]
Trong các chuyến đi khảo sát thực địa bên Lào (12/00) và Cam Bốt (12/01) mới đây, chúng tôi đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái của con sông Mekong đang cạn dần – một cách tệ hại và nhanh hơn cả những dự đoán bi quan nhất. Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một giáo sư am hiểu tình hình Trung Quốc đã đưa ra nhận xét là trong bang giao quốc tế “Trung Quốc chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt – good track records”.
TRUNG QUỐC NẮM MỌI CON BÀI.
Sông Mekong_ con sông Danube của Phương Đông, như một con sông quốc tế lớn thứ 11 thế giới và thứ ba Châu Á ấy đang đứng trước những nguy cơ do những bước phát triển tự phát bừa bãi dẫn tới từng bước hủy hoại toàn hệ sinh thái vô cùng phong phú của con sông [chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon Nam Mỹ].
Thảm họa lớn nhất cho con sông Mekong là Những Đập Thủy Điện không ngừng được xây thêm – xây thêm trên dòng chính và cả các phụ lưu. Đáng sợ nhất vẫn là Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Khổng Lồ Vân Nam khiến nhiều khúc sông bị bóp nghẽn, làm ảnh hưởng trên toàn sinh cảnh của dòng sông và tác hại lâu dài trên hàng trăm triệu cư dân sống hai bên bờ con sông ấy.
Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance) có văn phòng ở Bangkok phát biểu: “Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khỏe mạnh. Nếu máu không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy sẽ bị tổn hại” [8]. Cũng lại chính Witoon tiếp: “Chúng ta phải cùng nhau hợp tác khai thác con sông Mekong như một toàn thể và không để cho bị chia cắt bằng những hàng rào chánh trị”.
Đó chỉ là tiếng kêu cứu trong sa mạc bởi vì trớ trêu thay, tất cả mong ước ấy có thành tựu được hay không lại hoàn toàn do Bắc Kinh định liệu. Và khi mà những con đập thủy điện Vân Nam được coi như yếu tố tích cực tạo sức bật cho các bước canh tân nhảy vọt của Trung Quốc thì theo Dai Qing nhà hoạt động môi sinh nổi tiếng đã có nhận định là “Trung Quốc sẽ không có một thay đổi nào trong kế hoạch khai thác sông Mekong của họ cho dù ảnh hưởng tác hai ra sao đối với các quốc gia dưới nguồn” [8]. Bắc Kinh đã hành động như chính mình đã sở hữu suốt chiều dài con sông – vốn là một con sông quốc tế.
CHIẾN TRANH MÔI SINH VÀ NHÂN QUYỀN.
Trong khi mọi người Việt phẫn uất đến cực điểm việc Trung Quốc chiếm đất biên giới phía bắc, lấn chiếm vịnh Bắc Bộ, “Tây tạng Hóa” Biển Đông với Hoàng Sa và Trường Sa với nguồn trữ lượng dầu khí khổng lồ trong đó, nhưng cùng lúc đang diễn ra một cuộc chiến khác rất thầm lặng từ hơn 2 ngàn dặm xa: đó là trận chiến môi sinh do Trung Quốc gây ra từ chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Vân Nam. Rõ ràng Trung Quốc đang từng bước hủy hoại con sông Mekong, về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới từng ngụm nước uống, chén cơm, nồi cá... hàng ngày của mỗi cư dân sống hai bên bờ con sông Mekong, tác hại trên quyền sống của hàng trăm triệu cư dân sống trong lưu vực nơi hạ nguồn và cũng là điều bi thảm khi chính những nạn nhân ấy – điển hình là hàng triệu nông dân ngư dân sống nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long rất cô đơn bị lãng quên, không hề được thông tin lại bị bóp nghẹt tiếng nói nhưng đồng thời họ vẫn bị bóc lột và khai thác bởi một chế độ toàn trị như hiện nay. Kinh hãi hơn nữa, là với chuỗi con đập khổng lồ ấy Trung Quốc đang nắm trong tay thứ vũ khí Môi Sinh Chiến Lược cực kỳ lợi hại có khả năng gây hạn hán hay những trận hồng thủy trong toàn lưu vực.
Phải làm gì khi mà thế liên minh của các quốc gia Đông Nam Á thực sự là chia rẽ và suy yếu. Các nước nhỏ ấy có thể làm khó gây thương tích cho nhau (self-inflicted injury) nhưng lại có chung một thái độ cam chịu trước sự hoành hành của nước lớn Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì bao giờ cũng theo chánh sách chia để trị và chỉ chấp nhận những cuộc thương thảo song phương trong các vụ tranh chấp và hiển nhiên không có một nước nào có đủ sức mạnh và tư thế ngoại giao [diplomatic leverage] để khiến Trung Quốc phải lắng nghe tiếng nói của mình.
Trước mắt, việc đưa Trung Quốc ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc về thái độ độc quyền khai thác con sông Mekong như một con sông quốc tế mà bất kể tới hậu quả nơi các quốc gia hạ nguồn sẽ như một báo động cảnh giác ít ra cũng khiến Trung Quốc và cả những đại công ty tư bản tài trợ cho các dự án thủy điện ấy biết là thế giới đang theo dõi họ khiến ở một chừng mực nào đó họ phải làm việc với những phương thức công khai minh bạch và hành sử một cách có trách nhiệm hơn thay vì với thái độ cao ngạo và trịch thượng Sống Chết mặc Bay như hiện nay.
Với một cái nhìn toàn cảnh trong mối tương quan chánh trị địa dư của toàn vùng, thì việc tiếp tục xây thêm những con đập trên dòng chính sông Mekong – điển hình là việc khởi công xây thêm con đập mẹ khổng lồ Tiểu Loan / Xiaowan, phải được xem làø một hành động thù nghịch, tuy chưa có tiếng nổ của súng đạn nhưng chính đó là một cuộc chiến tranh môi sinh không tuyên chiến của Trung Quốc. Đây cũng là “một vi phạm nhân quyền / human right violation trên quy mô lớn nhất”.
Sau hơn nửa thế kỷ chiến tranh, bước sang thế kỷ 21, dân tộc Việt nam lại đang phải đương đầu với những thử thách lớn trước Nguy Cơ Sống Còn. Và hiển nhiên không có giải pháp đơn lẻ cho riêng vấn đề môi sinh của một dòng sông_ mà phải là bước chuyển hóa cơ bản của cả một hệ thống xã hội_ trong đó có Việt Nam từ “Chế Độ Toàn Trị” tiến lên “Dân Chủ” . Có dân chủ là có cơ hội mở mang dân trí và chính người dân sẽ có ý thức và tiếng nói không chỉ để bảo vệ một dòng sông, bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ mà cơ bản nhất là quyền sống với phẩm giá của mỗi con người.
NGÔ THẾ VINH
04/02 - [Đặc San Đại Hội Quốc Tế Y Nha Dược Sĩ Việt Nam Kỳ IV]
Tham Khảo:
1/ Lessons Unlearned: Damming the Mekong River. Rothert Steve. International River Network, Working paper 6, Oct 1995.
2/ Development Dilemmas in the Mekong Subregion. Bob Stensholt. Workshop Proceedings, Oct 1-2, 1996. Melbourne.Monash Asia Institute. VIC 3168, Australia.
3/ The Impact of Development on the River, her Delta, and her People. The 1999 Conference on The Mekong River at Risk. The Mekong Papers. Mekong Forum & VAST 1999.
4/ The Mekong Choke Point. Shawn W. Crispin, Margot Cohen, Bertil Lintner. Far Eastern Economic Review, Oct 12, 2000.
5/ China Prepares For Major New Power Station. Asia Pulse Pte Limited. Apr 12, 2001.
6/ The Mekong. Environment and Development. Hiroshi Hiro. United Nations University Press, 2000.
7/ China’s Dated Perspective Lingers, Turning Encounters Into Crisis. Karby Leggett, Peter Wonacott, Ian Johnson. Wall Street Journal, Apr 6, 2001.
8/ Strangling the Mekong. Ron Moreau, Richard Ernsberger Jr. Newsweek International Mar 19, 2001
9/ Concern over plan to widen channel – clearing islets could affect neighbours. Saridet Marukatat. Bangkok Post April 20, 2001. (http://www.mekongriver.org/vndapvanam.htm)THÊM CON ĐẬP MẸ XIAOWAN: SÔNG MEKONG TRƯỚC NGUY CƠ
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Khi được hỏi về mối quan tâm của các quốc gia hạ nguồn về ảnh hưởng khai thác sông Mekong của Trung Quốc, thì Wang Xiaodong chuyên viên Viện Nghiên Cứu Hoa Lục thản nhiên đáp: “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.”(2)
NGÔ THẾ VINH
LẠI THÊM MỘT CON ĐẬP MẸ KHỔNG LỒ
Theo tin Asian Pulse, Côn Minh 04/12/2001: Li Jiating tỉnh trưởng Vân Nam thông báo là trong năm nay Trung Quốc đang rộn rịp chuẩn bị khởi công xây con đập vĩ đại Xiaowan chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Giáp [Three Gorges Dam] lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. (1)
Đập Xiaowan được xây nơi khúc giữa con sông Lan Thương Giang [Lancang Jiang, tên Trung Hoa của con Sông Mekong chảy qua Vân Nam]. Đây là đập thủy điện thứ tư nhưng lại là lớn nhất trong chuỗi 7 con đập bậc thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong tiếp theo sau ba con đập Manwan 1500 MW (hoàn tất 1993), Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1350 MW (khởi công 1996) và Cảnh Hồng / Jinhong 1500 MW (khởi công 1998).
Đập Xiaowan sẽ có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Manwan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng]. (Hình 1)
Xiaowan sẽ như một con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, chỉ riêng những con số cũng đã gây mối quan tâm lo ngại cho các nhà bảo vệ môi sinh và 5 quốc gia nơi hạ nguồn.
Đây sẽ là một con “đập cao nhất thế giới” 292 mét tương đương tòa nhà chọc trời cao 100 tầng. Và theo Kou Wei giám đốc thủy lợi sông Mekong thì hồ chứa đập Xiaowan sẽ là “Con Đập Mẹ / Mother Dam” dung lượng lên tới 15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông Mekong – bằng tổng số dung lượng tất cả các hồ chứa tỉnh Vân Nam. Tổn phí để xây con đập Xiaowan lên tới trên 4 tỉ $US [32 tỉ Yuan] cũng là tổn phí cao nhất cho tất cả các dự án Vân Nam trong nửa thế kỷ qua. Nhiều chục ngàn công nhân đã được điều động tới để xây dựng cầu đường và các dự án yểm trợ cho đại công trình.
Dự trù đập Xiaowan sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2010 và đạt toàn công suất năm 2013, mỗi năm sản xuất 18.9 tỉ kilowatt/giờ , phân nửa lượng điện ấy sẽ được chuyển qua Quảng Đông và các tỉnh cận duyên.
Xiaowan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc nơi vùng Tây Nam nghèo khó chưa phát triển nhưng lại rất giàu nguồn “than trắng”. Số lượng điện hiện nay đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và đã có thể chuyển sang các tỉnh thiếu điện miền đông như Thượng Hải, Quảng Đông ... Chỉ riêng năm nay Vân Nam đã cung cấp cho tỉnh Quảng Đông 900 000 kilowatt/giờ và dự trù sẽ cung cấp 15 triệu kilowatt/giờ trong vòng 15 năm tới. “MẶT TRỜI NHỎ TRÊN SÔNG MEKONG” Các dự án khai thác sông Mekong của Trung Quốc đã có từ thập niên 70 trong thời kỳ còn bức màn sắt cô lập đất nước này với thế giới bên ngoài. Kể từ khi Trung Hoa bắt đầu mở cửa mãi tới năm 1989 người ta chỉ mới được biết sơ qua các dự án thủy điện Vân Nam qua một cuốn sách duy nhất của nhà xuất bản Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn bản tiếng Trung Hoa dày hơn 600 trang nhan đề “Lan Thương Giang: Tiểu Thái Dương / Lancang Jiang: Xiao Taiyang” gồm 45 bài viết về các đề tài khác nhau nhưng tựu chung là chỉ đề cập tới những lợi lộc về thủy điện và nguồn nước của chuỗi 7 con đập bậc thềm (dĩ nhiên trong đó có con Đập Mẹ Khổng Lồ Xiaowan) trên sông Mekong tỉnh Vân Nam với tổng số công suất lên tới15400 Megawatt tổn phí dự trù là 7.7 tỉ $US.
Do con sông Mekong từ Tây Tạng xuống Vân Nam chảy rất siết [nên có tên Lan Thương Giang / Con Sông Xanh Cuộn Sóng] với rất nhiều ghềnh thác có nơi cao hơn 600 mét . Với độ dốc ấy, dòng chảy siết ấy được coi là lý tưởng cho việc xây cất một chuỗi những con đập khổng lồ, lại trên vùng thưa dân nên không phải tốn kém trong việc tái định cư các nạn nhân trong vùng xây đập.
Tuy đã có kế hoạch khai thác sông Mekong từ những năm 70 nhưng vì thiếu ngân sách nên mãi tới năm 80 con đập Manwan đầu tiên cao 99 mét với bức tường thành cao 35 tầng mới được khởi công và 13 năm sau mới xây xong và ngay sau đó cảnh thiếu điện tối tăm của Vân Nam và thủ phủ Côn Minh đã trở thành quá khứ. Khi hoàn tất chuỗi các con đập Vân Nam này, Trung Quốc sẽ dư khả năng điện khí hóa toàn các tỉnh phía nam và phía đông cận duyên củaTrung Hoa; riêng điện từ đập Cảnh Hồng để xuất cảng sang Thái Lan. Cuốn sách cũng đề cập tới tiềm năng con sông Mekong như một thủy lộ đi về phương nam.
Nhưng điều đáng nói là cả cuốn sách không có bài viết nào nghiên cứu về hậu quả “có thể chấp nhận được hay không” của chuỗi các con đập ấy đối với 5 nước vùng hạ lưu là Miến, Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam.
Trung Quốc thì luôn luôn giấu kín nhẹm các kế hoạch khai thác sông Mekong của mình – như một thứ bí mật quân sự. Lê Quang Minh, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ Đồng bằng Sông Cửu Long đã phải than thở: “Thật khó để có được thông tin từ phía Trung Quốc. Điều ấy khiến chúng tôi thật sự lo ngại”. (4) Thản hoặc nếu có chút hé mở ra thì Bắc Kinh chỉ toàn nói tới những điều tốt đẹp các khía cạnh màu hồng với hiệu quả tích cực của các con đập “mang tính giai thoại – anecdotal” chứ không phát xuất từ một cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh nào.
Chẳng hạn theo họ thì chỉ với ba con đập đầu tiên Manwan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng có thành vách cao với các hồ chứa theo mùa / seasonal reservoirs, lấy nước tối đa trong mùa mưa và xả nước trong mùa khô sẽ có tác dụng chống lũ lutï và chống hạn cho các quốc gia dưới nguồn.
Nhưng những người Cam Bốt hiểu biết thì thấy ngay rằng nếu không còn con lũ hàng năm từ thượng nguồn đổ về để tạo dòng chảy ngược từ con sông Tonlé Sap vào Biển Hồ [như trái tim và sự sống của Cam Bốt] thì rõ ràng đó là tương lai của một Biển Hồ chết . Riêng với Đồng Bằng Sông Cửu Long nam Việt Nam thì các con sông sẽ không chỉ không còn phù sa (nguồn phù sa chủ yếu từ thượng nguồn bị giữ lại trong các hồ chứa Vân Nam) mà cả cạn nguồn nước ngọt để thay thế bằng một biển mặn vì lòng sông thấp hơn mặt biển và rồi ra sẽ chẳng còn đâu vựa lúa nuôi sống cả nước và không còn đâu cả một Nền Văn Minh Miệt Vườn.
Trung Quốc đang ngang ngược và độc quyền khai thác con sông Mekong bằng cái giá của hạnh phúc an sinh và cả sống còn của hàng trăm triệu cư dân nơi các quốc gia hạ nguồn.
VẪN MỘT KHUÔN MẪU LÝ LẼ CỦA KẺ MẠNH
Khi đề cập tới biến cố máy bay Mỹ Hoa đụng nhau mới đây (04/01) đưa tới việc bắt giữ phi hành đoàn Mỹ trên đảo Hải Nam, Wang Xiaodong, chuyên viên thuộc Viện Nghiên Cứu Trung Hoa đã tuyên bố hung hãn rằng: “Chỉ có một ngôn ngữ mà người Mỹ hiểu được là sức mạnh quân sự.”
Theo tấm bản đồ ấn hành lần đầu tiên năm 1989 của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thì Biển Đông (mà họ gọi là Nam Hải
/ South China Sea) là thuộc “Vùng Đặc Quyền Kinh Tế – Exclusive Economic Zone” của họ. Điều đó có nghĩa là họ khẳng định các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa [vốn của Việt Nam] với nguồn dầu khí khổng lồ đương nhiên thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà chẳng cần phải thương thảo [Sic]. Máy bay hay tàu chiến dù là của siêu cường Mỹ vào Biển Đông có nghĩa là đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ Trung Hoa.
Như vậy ngay sang năm đầu của Thế Kỷ 21, đã không còn giới hạn trong “tranh chấp vùng” giữa Trung Quốc và các nước nhỏ Đông Nam Á, Bắc Kinh nay đã ngang nhiên đối đầu với Mỹ khi khẳng định Thái Bình Dương phải là vùng ảnh hưởng của Hoa Lục và yêu cầu Đệ Thất Hạm Đội Mỹ phải rút đi. Vẫn trong cùng một “mẫu hay mô thức – pattern”dựa trên lý lẽ của kẻ mạnh ấy, người ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy Trung Quốc không chỉ thường xuyên lấn át thô bạo cả bằng quân sự các quốc gia láng giềng trên Biển Đông mà họ còn tự cho là có độc quyền và toàn quyền khai thác con sông Mekong với thế thượng phong là quốc gia thượng nguồn chiếm lĩnh suốt nửa chiều dài dòng sông. Trung Quốc luôn luôn tỏ ra chuyên quyết trong các kế hoạch tận khai thác một con sông Mekong mà chẳng kể gì tới tới mối quan tâm lo lắng về một thảm họa môi sinh do họ gây ra cho các quốc gia dưới nguồn.
APRÈS NOUS LE DÉLUGE
Năm 1995 Bắc Kinh đã dứt khoát từ chối tham gia Ủy Hội Sông Mekong để vẫn là một nước Trung Hoa “ngoài vòng kiêm tỏa” tự do muốn làm gì thì làm. Ủy Hội Sông Mekong không có Trung Quốc tham gia và hợp tác sẽ trở thành một tổ chức vô hiệu và tê liệt.
(Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về lịch sử hình thành Ủy Hội Sông Mekong. Năm 1957, Ủy Ban Sông Mekong / MRC Mekong River Committee được Liên Hiệp Quốc thành lập bao gồm 4 nước Thái, Lào, Cam Bốt và Việt Nam với trụ sở đặt tại Bangkok để có kế hoạch khai thác con sông Mekong không phải chỉ có tiềm năng thủy điện mà còn cả về phát triển thủy lợi, canh nông, ngư nghiệp và giao thông. Nhưng do Chiến Tranh Việt Nam lan rộng mọi nên kế hoạch thủy điện trên dòng chính sông Mekong phải đình hoãn. Đến tháng 4 năm 1995, bốn nước lại nhóm họp để thành lập Ủy Hội Sông Mekong / MRC Mekong River Commission trong kế hoạch hợp tác và phát triển bền vững nhưng với điều thay đổi cơ bản là không nước hội viên nào có quyền phủ quyết / veto power). Đến năm 1997, cho dù Liên Hiệp Quốc đã phê chuẩn công ước liên quan tới vấn đề hợp tác phát triển bền vững và sử dụng nước trên các con sông quốc tế nhưng cũng chính Trung Quốc đã lại bỏ phiếu chống.
Tháng 08 năm 2000 có thêm một Hội Nghị “ASEAN Plus Three” họp tại vương quốc Brunei, ngoài các nước thuộc Hiệp Hội Quốc Gia Đông Nam Á, còn có thêm ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn nhưng do thái độ ngang ngạnh của Bắc Kinh nên cũng không đưa tới một kết quả cụ thể nào, phá tan niềm hy vọng hợp tác của các nước hạ nguồn với Trung Quốc trong kế hoạch phát triển Sông Mekong. (4)
Trong khi đó Trung Quốc vẫn không ngừng “xây thêm – xây thêm” những con đập Vân Nam [với điện khí hóa, kỹ nghệ hóa gây ô nhiễm]. Trung Quốc đã tự do lấy nước vào các hồ chứa khổng lồ, làm cạn dòng sông, ngăn chặn nguồn phù sa, hủy hoại nguồn cá , với tác hại lâu dài trên toàn hệ sinh thái ảnh hưởng tới đời sống của hàng trăm triệu cư dân dưới nguồn. Xa hơn nữa họ còn có khả năng đổi dòng sông Mekong để có nước tưới cho những vùng đất mênh mông khô hạn của Trung Quốc và cả dùng chất nổ phá vỡ những khối đá trên sông để mở thủy lộ giao thông đi về phương nam.
Trong chuyến đi khảo sát thực địa bên Lào mới đây (12/00) chúng tôi đã tận mắt chứng kiến sự suy thoái của con sông Mekong đang cạn dần – một cách tệ hại và nhanh hơn cả những dự đoán bi quan nhất. Nhưng với Wang Xiaodong chuyên viên nghiên cứu người Hoa thì không có gì để phải bận tâm, bởi vì theo Wang thì “Đó là đất và là nước của chúng tôi. Đó là quyền của chúng tôi muốn làm gì thì làm.” Cũng không có gì đáng ngạc nhiên khi một giáo sư am hiểu tình hình Trung Quốc đã đưa ra nhận xét là trong bang giao quốc tế “Trung Quốc chưa hề có một hồ sơ theo dõi tốt – good track records”.
CON SÔNG QUỐC TẾ:
Wang Xiaodong như một chuyên viên nghiên cứu người Hoa ở cái tuổi 45 [một nguồn chất xám [think tank của Hoa Lục] đang biểu trưng cho một tinh thần quốc gia cực đoan và bá quyền của giới lãnh đạo Trung Quốc. Hiển nhiên Wang Xiaodong không thể không biết con sông Mekong hội đủ định nghĩa “địa dư chính trị / geopolitics” của một “con sông quốc tế – international river” bao gồm những đặc tính: (a) con sông chảy qua hai hay nhiều quốc gia [Tây Tạng, Trung Hoa, Miến Điện, Lào, Thái, Cam Bốt, Việt Nam], hoặc (b) con sông tiêu tưới cho lưu vực [drainage basin] của hai hay nhiều quốc gia [Vân Nam/Trung Hoa, Miến Điện, Thái Lan, Lào Cam Bốt và Đồng bằng Sông Cửu Long/Việt Nam] hoặc (c) con sông liên quan tới vấn đề biên giới thuộc lãnh vực công pháp quốc tế [sông Mekong như một ranh giới thiên nhiên giữa Thái Lan và Lào], hay (d) con sông là phương tiện giao thông đi lại bằng một thỏa thuận quốc tế nhưng trong thực tế khi chảy vào nội địa một quốc gia thì quyền ấy vẫn có thể bị hạn chế hay bị tước đoạt tùy theo cách diễn dịch của quốc gia liên hệ. Hội đủ tất cả những đặc tính ấy, Mekong đúng nghĩa là một con sông quốc tế . Biết rõ điều ấy, vẫn đưa ra những lý lẽ cực đoan dựa trên sức mạnh trong khung cảnh một thế giới bước vào “toàn cầu hóa / globalization”, làm sao lục địa Á Châu có thể có được một tương lai hòa bình.
TRUNG QUỐC NẮM MỌI CON BÀI
Con sông quốc tế lớn thứ 12 thế giới và lớn thứ ba Châu Á ấy đang đứng trước những nguy cơ. Không có kế hoạch nghiên cứu về những bước phát triển bền vững, không có sự hợp tác tin cậy giữa các quốc gia, chỉ có những bước phát triển tự phát bừa bãi dẫn tới từng bước hủy hoại toàn hệ sinh thái vô cùng phong phú của con sông [chỉ đứng thứ hai sau con sông Amazon]. Phá rừng tự sát [từ Trung Quốc xuống tới Lào, Thái, Cam Bốt và Việt Nam] vẫn đang tiếp tục ngốn nốt những khu Rừng Mưa / Rainforest còn sót lại, giết nốt những loài thú hiếm. Không còn những khu Rừng Mưa như những tấm bọt biển khổng lồ giữ nước trong Mùa Mưa và nhả ra trong Mùa khô đưa tới hậu quả cực đoan là lụt lớn ngay Mùa Mưa và hạn hán trong Mùa Khô mà điển hình là vụ lũ lụt khủng khiếp năm vừa qua ở Cam Bốt và Việt Nam làm chết 500 người, trôi nhà cửa, ruộng vườn và vô số gia súc.
Đánh cá bằng lưới lớn theo lối lùng và diệt với mỗi mẻ lưới lên tới cả trăm ngàn con bất kể lớn nhỏ đã làm suy giảm nguồn cá một cách đáng lo ngại chưa kể nguy cơ tận diệt một số giống cá hiếm như Pla Beuk, cá Dolphins... chỉ còn lại một số rất ít trên con sông Mekong.
Nhưng thảm họa lớn nhất cho con sông là những đập thủy điện không ngừng được xây thêm – xây thêm trên dòng chính và cả các phụ lưu sông Mekong. Đáng kể nhất là những con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam. Từng khúc sông bị bóp nghẽn không chỉ ngăn chặn các đoàn di ngư bơi lên thượng nguồn để sinh sản [như cá Pla Beuk mỗi năm vượt mấy ngàn Km từ hạ nguồn để lên hồ Đại Lý đẻ trứng] còn làm thay đổi nhịp độ dòng chảy gây ô nhiễm nguồn nước làm ảnh hưởng trên toàn sinh cảnh của dòng sông và tác hại trên hàng trăm triệu cư dân sống hai bên bờ con sông ấy.
Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA (Towards Ecological Recovery & Regional Alliance) có văn phòng ở Bangkok phát biểu: “Những con đập là mối đe dọa lớn nhất đối với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khỏe mạnh. Nếu máu không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy sẽ bị tổn hại” (3). Cũng lại chính Witoon tiếp: “Chúng ta phải cùng nhau hợp tác khai thác con sông Mekong như một toàn thể và không để cho bị chia cắt bằng những hàng rào chánh trị” (4) Đó chỉ là tiếng kêu cứu trong sa mạc bởi vì trớ trêu thay, tất cả mong ước ấy có thành tựu được hay không lại hoàn toàn do Bắc Kinh định liệu.
James Sasser, cựu đại sứ Mỹ ở Bắc Kinh khi được hỏi về phương hướng giải quyết vụ đụng độ Mỹ Hoa trên đảo Hải Nam đã phát biểu là “Trung Quốc nắm trong tay mọi con chủ bài – China held all the cards”. Phát biểu đó cũng hoàn toàn đúng trong vụ tranh chấp khai thác con sông Mekong. Và khi mà những con đập thủy điện Vân Nam được coi như yếu tố tích cực tạo sức bật cho các bước canh tân nhảy vọt của Trung Quốc thì theo Dai Qing nhà hoạt động môi sinh nổi tiếng đã có nhận định là “Trung Quốc sẽ không có một thay đổi nào trong kế hoạch khai thác sông Mekong của họ cho dù ảnh hưởng tác hai ra sao đối với các quốc gia dưới nguồn” (3). Bắc Kinh đã hành động như chính mình đã sở hữu toàn 4500 Km suốt chiều dài của dòng sông – vốn là một con sông quốc tế.
CHIẾN TRANH MÔI SINH VÀ NHÂN QUYỀN
Phải làm gì khi mà thế liên minh của các quốc gia Đông Nam Á thực sự là chia rẽ và suy yếu. Các nước nhỏ ấy có thể làm khó gây thương tích cho nhau (self-inflicted injury) nhưng lại có chung một thái độ cam chịu trước sự hoành hành của nước lớn Trung Quốc. Mà Trung Quốc thì bao giờ cũng theo chánh sách chia để trị và chỉ chấp nhận những cuộc thương thảo song phương trong các vụ tranh chấp và hiển nhiên không có một nước nào có đủ sức mạnh và tư thế ngoại giao [diplomatic leverage] để khiến Trung Quốc phải lắng nghe tiếng nói của mình.
Trước âm mưu không chỉ Tây Tạng Hóa Biển Đông mà còn Độc quyền Khai Thác Với Từng Bước Hủy Hoại Con Sông Mekong ảnh hưởng tác hại trên sự sống còn của các quốc gia nơi hạ nguồn, thì chỉ còn một đường sống cho các nước nhỏ Đông Nam Á là đoàn kết trong bình đẳng và tin cậy để có thể hành động phối hợp trong một thế trận chung về kinh tế , quân sự và nhất là chính trị ngoại giao để có đủ sức mạnh đương đầu với con mãnh hổ Trung Quốc.
Rõ ràng Trung Quốc đang từng bước phát triển hủy hoại con sông Mekong, về lâu dài sẽ ảnh hưởng tới từng ngụm nước uống, chén cơm, nồi cá... hàng ngày của mỗi cư dân sống hai bên bờ con sông Mekong, tác hại trên quyền sống của hàng trăm triệu cư dân sống trong lưu vực nơi hạ nguồn (và cũng là điều bi thảm khi chính những nạn nhân ấy – điển hình là hàng triệu nông dân ngư dân sống nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long rất cô đơn bị lãng quên, không hề được thông tin lại bị bóp nghẹt tiếng nói nhưng đồng thời họ vẫn bị bóc lột và khai thác bởi một chế độ toàn trị) .
Trước mắt, việc đưa Trung Quốc ra trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc về thái độ độc quyền khai thác con sông Mekong như một con sông quốc tế mà bất kể tới hậu quả nơi các quốc gia hạ nguồn sẽ như một báo động cảnh giác ít ra cũng khiến Trung Quốc và cả những đại công ty tư bản tài trợ cho các dự án thủy điện ấy biết là thế giới đang theo dõi họ khiến ở một chừng mực nào đó họ phải làm việc với những phương thức công khai minh bạch và hành sử một cách có trách nhiệm hơn thay vì với thái độ cao ngạo và trịch thượng Sống Chết mặc Bay như hiện nay.
Với một cái nhìn toàn cảnh trong mối tương quan địa dư chánh trị của toàn vùng, thì việc tiếp tục xây thêm những con đập trên dòng chính sông Mekong – điển hình là việc khởi công xây thêm con đập mẹ khổng lồ Xiaowan, phải được xem làø một hành động thù nghịch, tuy chưa có tiếng nổ của súng đạn nhưng chính đó là một cuộc chiến tranh môi sinh không tuyên chiến của Trung Quốc. Đây cũng là “một vi phạm nhân quyền / human right violation trên quy mô lớn nhất”.
NGÔ THẾ VINH
04/20/01
Tham Khảo:
1/ China Prepares For Major New Power Station. Asia Pulse Pte Limited. Apr 12, 2001.
2/ China’s Dated Perspective Lingers, Turning Encounters Into Crisis. Karby Leggett, Peter Wonacott, Ian Johnson. Wall Street Journal, Apr 6, 2001.
3/ Strangling the Mekong. Ron Moreau, Richard Ernsberger Jr. Newsweek International Mar 19, 2001
4/ The Mekong Choke Point. Shawn W. Crispin, Margot Cohen, Bertil Lintner. Far Eastern Economic Review, Oct 12, 2000.
5/ Development Dilemmas in the Mekong Subregion. Bob Stensholt. Workshop Proceedings, Oct 1-2, 1996. Melbourne.
Monash Asia Institute. VIC 3168, Australia.
6/ Lessons Unlearned: Damming the Mekong River. Rothert Steve. International River Network, Working paper 6, Oct 1995. (http://www.mekongriver.org/vnxiaowan.htm)NGUY CƠ ĐỘNG ĐẤT
TỪ NHỮNG CON ĐẬP VÂN NAM
Gửi Nhóm bạn Cửu Long
The upper Mekong Basin is an earthquake zone…
It is feared, earthquakes may occur if dams are
built in the upper Mekong Basin _ Hiroshi Hori [1]
NGÔ THẾ VINH
An toàn của các con đập thủy điện phải là mối quan tâm hàng đầu, nhất là đối với những con đập cao và hồ chứa nước lớn như chuỗi những con đập bậc thềm Vân Nam. Mối e ngại lại càng gia tăng khi con đập được xây trên vùng địa chất được coi là không ổn định hay thường xảy ra động đất.
Theo giáo sư Shunzo Okamoto thuộc đại học Tokyo thì sức nước hãm ép của hồ chứa có thể gây động đất nhất là nơi mà “tiềm năng lượng động đất” (potential earthquake energy) đã tích lũy ở mức cao. [1]
Điển hình là Nhật Bản vốn nằm trên vùng địa chất không ổn định thường xảy ra các trận động đất, nên mỗi dự án xây đập đều được khảo sát thật chu đáo trên mọi khía cạnh nhất là địa chất với những hồ sơ theo dõi các trận động đất lớn nhỏ và hoạt động của núi lửa và cả xác định xem có rãnh nứt dưới lớp địa tầng hay không. Do đó đã có một số công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh ở Nhật liên quan tới “xây đập gây hậu quả động đất”.
Giáo sư Seiji Otake nguyên giám đốc nghiên cứu về động đất của Trung Tâm Quốc Gia Phòng Tránh Thiên Tai Nhật Bản đã đưa ra nhận định: có tới 90 phần trăm xác suất là các hoạt động địa chấn gia tăng ở vùng có những con đập cao hơn 100 mét. [1]
Đã có rất nhiều tường trình về các trận động đất do xây đập gây ra: cả ở vùng ôn đới các quốc gia kỹ nghệ và ở vùng nhiệt đới các nước đang phát triển.
Các nhà khoa học địa chất khảo sát những con đập lớn nhận thấy sức nặng thường trực của khối nước khổng lồ trong hồ chứa đã gây ra tình trạng mất cân bằng địa chấn, gây đứt đoạn lớp địa từng dưới đáy có thể làm vỡ cấu trúc toàn con đập_ mà người gọi là các trận “ĐỘNG ĐẤT DO HỒ CHỨA_reservoir triggerred seismicity”.
Đã có những trận động đất gây ra do hồ chứa làm chấn động dư luận thế giới. Như hồ chứa Đập Aswan High_ Ai Cập khi lấy đầy nước; thì sau đó các trận động đất M4.7_ [3/82], M4.3_ [2/83] đã xảy ra trên một vùng đất mà trước 1980 chưa hề có ghi nhận một cơn địa chấn nào. Tại Trung Quốc, gần tỉnh Quảng Đông, có con đập Tân Phong Giang / Xinfengjian cấu trúc giống đập Aswan đã bị một cơn địa chấn M6.1 vào năm 1961. Các trận động đất khác do hồ chứa cũng đã xảy ra với con đập Koina_ Ấn Độ M5.5_ [9/67], M6.3_[12/67] làm nứt thành đập và khiến hơn 180 người chết}.
LƯU VỰC DƯỚI SÔNG MEKONG THÌ YÊN TĨNH
Con đập lớn Pa Mong tuy chỉ mới hình thành trên dự án nơi Lưu Vực Dưới sông Mekong [Lower Mekong Basin], nhưng các chuyên gia Ủy Ban Sông Mekong đã hết sức thận trọng nghiên cứu về hậu quả có thể gây động đất do dung lượng lớn của hồ chứa. Các cuộc khảo sát địa chất cũng đã phát hiện ra các đường nứt_ faults, trong số đó có đường nứt Ban Ang (Ban Ang fault) chạy ngang dưới vùng xây đập Pa Mong, nhưng đó chỉ là những đường nứt cũ và không còn hoạt động / inactive. Và cho tới nay chưa có một cơn địa chấn nào ghi nhận được nơi dự trù xây đập Pa Mong.
[Tưởng cũng nên nói qua về Dự Án Đập Pa Mong, đó là con đập lớn giữa biên giới Thái Lào trên dòng chính sông Mekong trong hệ thống đập nơi Lưu Vực Dưới sông Mekong với hồ chứa dài hơn 300 km sẽ dìm sâu trong đáy nước một vùng đất đai nhà cửa của khoảng 60 ngàn cư dân nhưng sẽ cung cấp nguồn điện trên 2,000 MW đồng thời cải thiện thủy lộ giao thông, tạo sức bật phát triển kinh tế cho toàn vùng đông bắc Thái Lan và Lào].
Cho dù có một số suối nước nóng nơi Lưu Vực Dưới sông Mekong nhưng hầu như đã không có hoạt động địa chấn nào trên vùng đất này. [1]
LƯU VỰC TRÊN SÔNG MEKONG THÌ XÁO ĐỘNG
Lưu Vực Trên sông Mekong [Upper Mekong Basin] là vùng nhiều núi lửa và rất thường xảy ra những cơn động đất, như gần rặng Arakan Bắc Miến Điện nơi có các ngọn núi lửa Pu Fai Yai và Pu Fai Noi cao hơn cao nguyên Muang Hongsawadi từ 60 - tới 90 mét. Vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra gần nơi xây đập Xiaowan trên dòng chính Lan Thương Giang_ tên Trung Quốc của con sông Mekong.
[Con đập Mẹ Vĩ Đại Xiaowan vừa được khởi công 04/2001 chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Giáp [Three Gorges Dam] lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Đập Xiaowan với công suất 4,200 MW là con đập cao nhất thế giới 292 mét tương đương với tòa nhà chọc trời cao 100 từng với dung lượng hồ chứa lên tới 15 tỉ mét khối nước lấy từ con sông Mekong, dự trù bắt đầu hoạt động từ năm 2010 và đạt toàn công suất năm 2013, sẽ cung cấp điện cho tỉnh Quảng Đông và các tỉnh cận duyên Trung Quốc].
Hiroshi Hori là một chuyên gia uy tín về sông Mekong, từng làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy Ban Sông Mekong trụ sở ở Bangkok trong thập niên 60s (1964-1969) đặc trách Kế Hoạch Lưu Vực Sông Mekong [Indicative Mekong River Basin Plan]. Sau đó ông giữ chức vụ tham vấn cho Ngân hàng Phát Triển Á Châu [ADB / Asian Development Bank], đại diện cho Chương Trình Phát Triển Liên Hiệp Quốc [UNDP / United ations Development Plan] ở New York. Đồng thời ông cũng là chủ tịch Uûy Ban Nghiên Cứu Sông Mekong của Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật bản [JICA / Japan International Cooperation Agency]. Ông cũng là tác giả của nhiều bài nghiên cứu kinh điển và các cuốn sách như “Technology Society_ Pergamon Press 1990”, “Conflicts and Opportunities Concerning Development and the Environment in the Mekong Basin_ IWRA 1998”.
Trong cuốn sách The Mekong: Environment and Development [United Nations University Press, Tokyo 2000]. Hiroshi Hiro đã đưa ra nhận xét:
Lưu Vực Trên Sông Mekong là vùng động đất, với những chuyển động địa chấn đáng kể nên người ta có lý do để sợ rằng động đất sẽ xảy ra khi xây những con đập nơi Lưu Vực Trên Sông Mekong. [1]
ĐẶC TÍNH ĐỘNG ĐẤT DO ĐẬP GÂY RA
Có thể phân loại các trận động đất do xây đập gây ra như sau:
Sức nước hãm nén trong hồ chứa trên vùng động đất làm gia tăng những cơn địa chấn do thay đổi mực nước và dung lượng hồ chứa.
Động đất vẫn xảy ra khi hồ chứa được xây trên vùng chưa có động đất trước đó.
Động đất xảy ra sau khi hồ chứa lấy đầy nước, với nhịp độ / frequency và biên độ / magnitude gia tăng với thời gian.
Vị trí các Tâm Địa Chấn (seismic centres) có thể nằm ngay trong khu hồ chứa, gần chu vi hay bên ngoài hồ chứa.
THEO DÕI PHÁT HIỆN PHÒNG TRÁNH
Khi mà động đất do hồ chứa xảy ra tại các quốc gia kém mở mang thì mức thiệt hại sẽ tăng gấp bội so với các quốc gia kỹ nghệ vì các cơ sở xây cất nhà cửa không đạt tiêu chuẩn chống động đất.
Do đó việc theo dõi phát hiện và phòng tránh động đất do hồ chứa phải là mối ưu tiên hàng đầu của các kỹ sư xây đập. Trong ngân sách xây đập phải bao gồm cả ngân khoản để trang bị mạng lưới các trạm theo dõi động đất [network of seismological stations]. Việc theo dõi phải liên tục trong suốt quá trình xây đập hay ít ra cũng phải được thiết kế đưa vào hoạt động trước khi bắt đầu lấy nước vào trong hồ chứa. [1]
NHỮNG KHẢO SÁT MỚI NHẤT VỀ ĐỘNG ĐẤT DO XÂY ĐẬP
Theo tiến sĩ T. Vladut thuộc nhóm Nghiên Cứu Môi Sinh Thủy Học Canada_ Hydro Environmental Research Group [1993] thì đã có hơn 2,000 bài viết về Động Đất gây ra do các con đập và hồ chứa. Khảo duyệt tất cả các công trình nghiên cứu ấy, Vladut đã đi tới kết luận:
1._ Từ thập niên 1930 [1932] người ta bắt đầu biết tới về mối liên hệ Động Đất với con đập Qued Fodda ở Algeria. Sang thập niên 1940 [1945] người ta đã lại quan tâm hơn tới mối liên hệ giữa độ sâu của hồ chứa con đập Hoover ở Mỹ với các trận động đất xảy ra sau đó.
2._ Từ năm 1932, trong số hơn 120 con đập trên thế giới người ta ghi nhận được những trận Động Đất xảy ra hoặc do nước hãm nén trong hồ chứa (water impoundment), hoặc khi hồ chứa hoạt động (reservoir operation).
3._ Có nhiều khả năng Động Đất xảy ra nơi con đập cao hơn 100 mét hoặc khi dung lượng hồ chứa lớn hơn 1 x 109 m3 .
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHUỖI ĐẬP VÂN NAM
Các dự án khai thác sông Mekong của Trung Quốc đã có từ thập niên 70 trong thời kỳ còn bức màn sắt cô lập đất nước này với thế giới bên ngoài. Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa mãi tới năm 1989 người ta chỉ mới được biết sơ qua các dự án thủy điện Vân Nam qua một cuốn sách duy nhất của Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn bản tiếng Trung Hoa dày 608 trang nhan đề “Lan Thương Giang: Tiểu Thái Dương” gồm 45 bài viết về các đề tài khác nhau nhưng tựu chung là chỉ đề cập tới những lợi lộc về thủy điện và nguồn nước của chuỗi 8 con đập bậc thềm trên sông Mekong tỉnh Vân Nam với tổng số công suất lên tới 15,400 Megawatt tổn phí dự trù là 7.7 tỉ $US. [4]
Tuy đã có kế hoạch rất hấp dẫn khai thác sông Mekong rất sớm từ những năm 70 nhưng vì “thiếu ngân sách” nên mãi tới năm 1980 con đập Manwan đầu tiên cao 99 mét với bức tường thành cao 35 tầng mới được khởi công và 13 năm sau thì xây xong (1993) và ngay sau đó cảnh thiếu điện tối tăm của Vân Nam và thủ phủ Côn Minh đã trở thành quá khứ. Khi hoàn tất chuỗi đập Vân Nam này, Trung Quốc sẽ dư khả năng điện khí hóa toàn các tỉnh phía nam và phía đông cận duyên của Trung Hoa. Cuốn sách cũng đề cập tới tiềm năng sông Mekong như một thủy lộ để đi về phương nam.
Nhưng điều đáng nói là cả cuốn sách không có bài viết nào nghiên cứu về hậu quả “có thể chấp nhận được hay không” của chuỗi các con đập ấy đối với 5 nước vùng hạ lưu là Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam. Như từ bao giờ Trung Quốc thì luôn luôn giấu kín nhẹm các kế hoạch chiến lược khai thác sông Mekong của họ – như một thứ bí mật quân sự. Lê Quang Minh, Phó Viện Trưởng Viện Đại Học Cần Thơ Đồng Bằng Sông Cửu Long đã phải than thở: “Thật khó để có được thông tin từ phía Trung Quốc. Điều ấy khiến chúng tôi thật sự lo ngại”. [3]
Bây giờ là năm 2002, tưởng cũng nên cập nhật hóa. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam, thì không phải chỉ có TÁM mà con số đã lên tới MƯỜI BỐN con đập trên dòng chính khúc thượng nguồn sông Mekong chưa kể vố số những con đập phụ lưu. [1]
Tên 14 con đập theo thứ tự từ bắc xuống nam đó là 1/ Liutongsiang, 2/ Jiabi, 3/ Wunenglong, 4/ Tuoba, 5/ Huangdeng, 6/ Tiemenkan, 7/ GUONGGUOQIO, 8/ XIAOWAN_ khởi công 2001, 9/ MANWAN_ hoàn tất 1993, 10/ DAICHAOSHAN / Đại Chiếu Sơn_ khởi công 1996, 11/ NUOZHADO, 12/ JINGHONG / Cảnh Hồng_ khởi công 1998, 13/ Gunlanba, 14/ MONGSONG. [Sơ Đồ ]
ĐÂU LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHUỖI ĐẬP VÂN NAM
_ 14 con đập và dự án đập Vân Nam nằm trong Lưu Vực Trên sông Mekong được coi là vùng địa chất không ổn định và thường có động đất. Điển hình là vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra nơi khu vực xây con đập Mẹ Vĩ Đại Xiaowan.
_ Theo tiêu chuẩn của tiến sĩ T. Vladut có nhiều khả năng Động Đất xảy ra nơi con đập cao hơn 100 mét hoặc khi dung lượng hồ chứa lớn hơn 1 x 109 m3: ít nhất SÁU trong MƯỜI BỐN con đập Vân Nam hoặc có chiều cao hoặc dung lượng hồ chứa lớn hơn giới hạn an toàn của Vladut.
TÊN ĐẬP: CHIỀU CAO / MÉT DUNG LƯỢNG HỒ / MCM CÔNG SUẤT / MW
Gongguoqiao 130 510 750
Xiaowan 292 15,130 4,200
Manwan 132 920 1,500
Dachaosan 118 890 1,350
Nuozhadu 260 22,740 5,500
Jinghong 107 1,230 1,500
[Tài Liệu của Wang Shui, Giám Đốc Kế Hoạch Lan Thương Giang Vân Nam] [5]
_ Liệu đã có những công trình nghiên cứu nào nghiêm chỉnh của Trung Quốc về tình trạng địa chất dọc theo con sông Lan Thương_ tên khúc sông Mekong chảy qua Trung Quốc là nơi sẽ mọc lên 14 con đập khổng lồ Vân Nam?
Có rất nhiều lý do để tin là không, bởi vì “mỗi con đập có những đặc tính địa chất duy nhất của nó, mà để hiểu biết cho tới nơi những đặc tính ấy thì tốn rất nhiều thời gian và tổn phí lên tới nhiều triệu đôla cho những cuộc khảo sát ấy _ McCulley, P.”[2] trong khi Trung Quốc không chỉ thiếu tiền mà còn vội vã đạt chỉ tiêu kế hoạch khai thác thủy điện chiến lược của họ.
Hoặc giả nếu có cái gọi là công trình nghiên cứu địa chất trên giấy tờ thì chúng ta cũng có thể biết trước rằng có “những dữ kiện địa chất dù biết trước là bất lợi cũng sẽ bị làm ngơ hay bỏ qua”.
Theo một nghiên cứu năm 1990 của Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) thì trong số 49 dự án xây đập thủy điện, có hơn 3/4 số đập gặp phải những “vấn đề về địa chất không tiên liệu được_ unexpected geological problems”. Và cuộc khảo sát ấy đã đưa tới kết luận khá bi quan rằng đối với các con đập thủy điện “nếu không gặp các vấn đề trở ngại về địa chất thì phải được coi đó như một ngoại lệ chứ không phải là sự kiện bình thường”. [2]
Trước những khiếm khuyết và bất trắc ấy, liệu trên đồ án mỗi con đập Vân Nam Trung Quốc có bao gồm thiết kế mạng lưới các trạm theo dõi động đất [network of seismological stations] để liên tục ghi nhận các dao động địa chấn trong suốt quá trình xây đập hay ít ra cũng phải được thiết kế đưa vào hoạt động trước khi bắt đầu lấy nước vào trong mỗi hồ chứa hay không?
An toàn của các con đập, liệu có bao giờ là mối ưu tư của các “Công Trình Sư Đại Hán” khi hình thành dự án Chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Vân Nam? Đã đến lúc nước lớn Trung Quốc có lương tri phải tỏ ra có trách nhiệm với chính cư dân của họ và hàng trăm triệu cư dân của các quốc gia hạ nguồn bằng cách công khai hóa những kế hoạch xây đập của họ. Đành rằng chẳng có cách nào để ngăn Trung Quốc không tiến hành
giấc mơ điện khí hóa vĩ đại của họ nhưng ở một chừng mực nào đó thì những khiếm khuyết và thiếu an toàn trong mỗi dự án phải được biết tới, theo dõi và bổ sung. Mà điều đó chỉ có được khi Trung Quốc chịu công khai hóa kế hoạch khai thác sông Mekong của họ.
Không phải là hư cấu để không nhìn thấy những hồ chứa nước khổng lồ của chuỗi đập Vân Nam có thể là thứ vũ khí môi sinh chiến lược kinh hãi mà Bắc Kinh có thể một ngày nào đó nghĩ tới sử dụng hoặc “gây đại hạn” hoặc gây ra “trận hồng thủy” có sức hủy hoại ghê gớm_ khi cần sẽ cho một nước hạ nguồn bướng bỉnh như Việt Nam “một bài học_ lần này thì là một bài học để đời”.
Và cũng lại không hoàn toàn là hư cấu khi nghĩ tới tình huống Trận Động Đất_ induced earthquake do các hồ chứa khổng lồ Vân Nam trong Lưu Vực Trên Sông Mekong. Lần này thì do sự kiêu căng, tham lam và thiển cận của Con Người đã không còn làm chủ được khoa học kỹ thuật của mình. Sức tàn phá khủng khiếp của Cơn Hồng Thủy Vỡ Đập sẽ cuốn đi bao nhiêu thành phố và bao nhiêu vạn sinh linh của Vân Nam và nơi các quốc gia hạ lưu?
Bước sang thập niên đầu của Thế Kỷ 21, chuỗi 14 Con Đập Bậc Thềm Khổng Lồ Vân Nam sẽ là lưỡi gươm Damoclès buộc trên sợi chỉ mành thường trực treo trên đầu trên cổ cư dân của năm quốc gia hạ nguồn là Miến Điện Thái Lan Lào Cam Bốt và Việt Nam.
Dù con đường còn lắm chông gai, nhưng việc phấn đấu để tiến tới một “Ủy Hội Sông Mekong Mở Rộng” bao gồm cả Trung Quốc và Miến Điện là bước tiên quyết để có một cơ quan điều hợp hữu hiệu cho toàn vùng trong kế hoạch vĩ mô “Phát Triển Bền Vững” nguồn tài nguyên phong phú của con sông Mekong.
NGÔ THẾ VINH
04 - 02
Tham Khảo:
1/ Hiroshi Hori. The Mekong: Environment and Development. United Nations University Press, Tokyo 2000.
2/ Patrick McCully. Silenced Rivers: The Ecology and Politics of Large Dams. Zed Books, Ltd. London 1996.
3/ Shawn W. Crispin, Margot Cohen, Bertil Lintner. The mekong Choke Point. Far Eastern Economic Review, Oct 12, 2000.
4/ E.C Chapman, He Daming. Downstream Implications of China’s Dams on the Lancang Jiang and their Potential Significance for Greater Regional Cooperation, Basin-Wide. Workshop Proceedings, Melbourne Oct 12, 1996.
5/ Wang Shui. The Lancang Jiang basin: Steps Towards the Realisation of Sustainable Development. Worshop Proceedings, Melbourne Oct 12, 1996.
No comments:
Post a Comment