Wednesday, October 5, 2011

SÔNG MEKONG và chúng ta (17)

Phác thảo đề án đê biển đa dụng cho Đồng bằng sông Cửu Long


http://www.challengetochange.org/climate_pics/mekong_delta.jpgĐồng bằng sông Cửu Long đang đối đầu với nguy cơ bị chìm khi mực nước biển dâng cao. Cần phải có biện pháp đối phó với nguy cơ rất thật này. Tôi trân trọng giới thiệu bài viết sau đây của Bác sĩ Ngô Thế Vinh, trong đó anh đề xuất ý tưởng xây đê biển đa dụng cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một “conceptual paper”, phác thảo sơ qua một Con Đê Biển Đa Dụng Ngăn Mặn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, và trong tương lai các tác giả sẽ cung cấp thêm chi tiết. NVT


MEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI [2]
PHÁC THẢO
DỰ ÁN ĐÊ BIỂN ĐA DỤNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
A POSSE AD ESSE / TỪ KHẢ NĂNG TỚI HIỆN THỰC
NGÔ THẾ VINH

LỜI MỞ ĐẦU – Đây là bài viết thứ hai, trong số 3 bài viết về tương lai Đồng Bằng Sông Cửu Long “Nhìn Xa Nửa Thế Kỷ Tới”. Bài thứ nhất, như một tổng quan, với nhận định: thủy điện vẫn là nguồn năng lượng rẻ nhất, do nhu cầu phát triển, những bước khai thác thủy điện trên sông Mekong, cho dù mau hay chậm, trước hoặc sau, thì đó vẫn là một tiến trình không thể đảo nghịch trong vòng nửa thế kỷ tới.
Do áp lực mạnh mẽ của các quốc gia thuộc Lưu Vực Dưới sông Mekong, kể cả cộng đồng quốc tế, cho dùLào đã đã có quyết định tạm ngưng khởi công xây con đập thủy điện Xayaburi 1,260 MW, là con đập thủy điện dòng chính đầu tiên trong dự án 9 con đập của Lào;một dấu mốc được International Rivers Network / IRN và các nhà hoạt động môi sinh coi như một “thắng lợi”, nhưng cũng để thấy rằng đây chỉ là bước trì hoãn tạm thời.

Nếu so với hai con đập thượng nguồn Tiểu Loan /Xiaowan 4,500 MWvà Nọa Trác Độ/ Nuozhadu 5,850 MW của Trung Quốc, mỗi con đập có công xuất trên dưới lớn hơn 5 lần con đập Xayaburi, và riêng đập Tiểu Loan có hồ chứa lớn hơn cả tổng dung tích 11 con đập hạ lưu cộng lại, nhưng Bắc Kinh thì vẫn cứ ngang nhiên triển khai kế hoạch khai thác thủy điện sông Mekong của họ cho do dù có phản ứng chống đối của dư luận quốc tế. Sự khác biệt rất rõ ràng: Trung Quốc là một nước lớn với lý lẽ của kẻ mạnh và đầy tham vọng vươn lên như một siêu cường, Lào chỉ là một quốc gia nhược tiểu nghèo nàn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài trợ từ bên ngoài để có thể thực hiện được các dự án đập của mình.

Khi mà Việt Nam là một trong những quốc gia lớn tiếng nhất chống dự án đập Xayaburinhưng Hà Nội sẽ ăn làm sao nói làm sao, khi mà chính một công ty nhà nước Petrovietnam Power Co. lại đứng tên tham gia vào dự án xây con đập thủy điện Luang Prabang 1,410 MWtrên dòng chính sông Mekong lớn hơn cả con đập Xayaburi. Để tiến tới xây dựng một “Tinh thần Sông Mekong / Mekong Spirit”Việt Nam không thể có một thứ tiêu chuẩn nước đôi/ double standard như vậy.

Lượng giá về một chính sách ngắn hạn

Cho dù ý thức được tiến trình không thể đảo nghịch trong nỗ lực khai thác tiềm năng thủy điện sông Mekong, nhưng chúng ta vẫn có nhu cầu phải đòi hỏi sự trong sáng và minh bạch / transparency, và những lượng giá môi sinh đúng mức cho những bước khai thác bền vững / sustainable development.

Chúng ta rất cần thêm thời gian, bằng những cuộc vận động không những trong phạm vi vùng mà cả với dư luận quốc tế.Kinh nghiệm tích cực với con đập thủy điện Xayaburiđáng là một bài học. Nhưng cũng để thấy có những hạn chế và khác biệt.Thay vì là con đập Xayaburi, giả thiết nếu đó là mộttrong 2 con đập Sambor hay Stung Treng của Cam Bốt với ông Thủ tướng là ông Hun Sen, thì liệu có đạt được một thỏa hiệp trì hoãn như đối với chánh phủ Vạn Tượng hay không, khi mà ông Hun Sen luôn luôn khẳng định rằng các con đập thủy điện thượng nguồn không có gì phải quan tâm; tất cả là do khí thải carbon/ carbon emissionsvà thay đổi khí hậu/ climate change. (6)

Lượng giá về một chính sách dài hạn

Do những nguyên nhân tích lũy, [1] Những con đập thượng nguồn, chủ yếu là các con đập Bậc thềm Vân Nam của Trung Quốc với những hồ chứa khổng lồ làm giảm lưu lượng nước, giảm lượng phù sa xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long, khiến không chỉ nước mặn càng lấn sâu vào vùng châu thổ mà còn tạo ra hiện tượng sạt lở như với mũi Cà Mau hiện nay; [2] Hiện tượng hâm nóng toàn cầu / global warming do tăng lượng khí thải CO2 từ than đá và dầu khí, làm tan dầnnhững tảng băng nơi hai cực Bắc và Nam, cùng với khối băng tuyết Cao nguyên Tây Tạng còn được gọi là Cực Thứ Ba / Third Pole ; hậu quả là nước biển ngày càng dâng cao. Theo các nghiên cứu về biến đổi khí hậu, mực nước biển có thể dâng cao từ 0. 8 m tới 1.5m vào năm 2100. Chỉ cần nước biển dâng cao 1mét, thì 90% diện tích Đồng Bằng Sông Cửu Long sẽ chìm dưới mực nước biển. [Hình 1]


Hình 1: Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chìm dưới biển mặn vào năm 2100 khi mực nước biển dâng cao 1 m.

Trước viễn tượng một Đồng Bằng Sông Cửu Long – vốn là vựa lúa nuôi sống cả nước, không chỉ thiếu nguồn nước ngọt mà còn bị sạt lở và sẽchìm trong biển mặn; Việt Nam sẽ không có một chọn lựa nào khác hơn là hình thành một dự án vĩ mô / mega-project xây dựng [1] một con đê biển đa dụng ngăn mặn và; [2] hai hồ chứa nước ngọt từ hai vùng trũng thiên nhiên là Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau. (3)

Bài viết thứ hai này, chủ yếu giới thiệu khái quát về một dự án phác thảo Con Đê Biển Đa Dụng Ngăn Mặn cho vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Tuy là bước rất sơ khởi, chỉ mới là khái niệm / conceptual kỹ thuật nhưng đây là công trình trí tuệ của anh Ngô Minh Triết, P.E. – một Kỹ sư Cấu trúc / Structural Engineer (1), với sự cộng tác của anh Phạm Phan Long, P.E. trong Nhóm Bạn Cửu Long; anh PP Long cũng thành viên sáng lập Hội Sinh Thái Việt / Việt Ecology Foundation.

Mục tiêu của đê biển đa dụng

Như tên gọi ban đầu, mục tiêu chính của đê biển là ngăn mặndo hậu quả nước biển dâng cao và do lưu lượng “dòng chảy tối thiểu” từ thượng nguồn xuống Đồng Bằng Sông Cửu Long càng ngày càng sút giảm.

Do hệ thống đê biển không nằm trên đất liền mà xa bờ, nên không có tổn phí phải mua lại đất / land acquisition , mà có khả năng tạo những hồ chứa trong vùng đệm giữa đê biển và bờ biển thiên nhiên hiện tại. Với thời gian, do nguồn nước đổ xuống từ thượng nguồn, cộng với lượng nước mưa, nước trong vùng đệm sẽ bớt mặn, tiềm năng khai thác chăn nuôi thủy sản như các loại cua biển, tôm xútrong vùng nước lợ / brackish water với nguồn lợi thu về sẽ rất lớn.

Con đê biển không những có hiệu quả tránh sạt lở giữ được đất, mà còn tạo thêm những vùng đất mới / land reclamation, tăng diện tích canh tác và cả triển vọng hình thành những đô thị mới. Phải xem đây là một trong những nguồn lợi tức lớn và lâu dài để trả về một cách xứng đáng cho nguồn vốn đầu tư rất lớn để xây dựng công trình.

Con đê biển cũng sẽ là một hệ thống Xa Lộ Vòng Đai của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Theo kỹ sư Ngô Minh Triết, bề mặt đê biển có thể rộng tới 25 m, đủ cho một xa lộ hai chiều, không chỉ cần thiết để bảo quảncông trình, mà cả có tầm quan trọng chiến lược về giao thông, kinh tế và quốc phòng, khi mà Biển Đông đã và đang là vùng tranh chấp gay gắt với nước lớn Trung Quốc. [Hình 2]


Hình 2: Đồng bằng sông Cửu Long và Đê Biển Ngăn Mặn từ độ sâu 3 mét đường chỉ màu đỏ.

Gió và mặt trời cũng sẽ là nguồn năng lượng thiên nhiên phong phú có thểkhai thác trên các vùng đất mới phía trong theo suốt chiều dài con đê biển. Và không thể không nghĩ tới một nguồn lợi tức đáng kể khác là Du lịch Sinh thái / Ecotourism, với các môn thể thao trên nước, như trượt nước, đua thuyền, câu cá / sport fishing …

Tính khả thi của dự án và phác họa mô hình đê biển

Cấu tạo địa chất đáy biển vùng cận duyên quanh Đồng Bằng Sông Cửu Long: 65% là đất phù sa / silt, 25% là đất sét / clay, và phần còn lại là cát. Vùng cận duyên hướng ra biển không sâu và khá phẳng, có độ dốc từ0.8:1000 tại các vùng cửa sông , 5.0:1000 nơi vùng mũi Cà Mau.

Dự trù đê biển sẽ nằm trong vùng cận duyên có độ sâu trung bình là 3 mét, chiều dài đê biển từ Gò Công vòng qua mũi Cà Mau tới Hà Tiên,tính theo hình ảnh vệ tinh là khoảng 600 km.

Đê biển được nối lại với nhau nơi mỗi cửa sông bằng những công trình cầu để bảo đảm tàu bè vẫn dễ dàng di chuyển hai chiều từ biển vào sông lên tới tận Nam Vang, do Mekong là một con sông quốc tế / international river.
Kỹ thuật và nhân công chủ yếu là từ địa phương. Nguyên liệu chính là đất sét, cát từ đáy biển được chứa trong những bọc / geotextile containers(một loại bao polyester rất bền và thấm nước), sau đó được gia cố bằng đá nhỏ với concrete xi- măng. Cát từ biển cũng có thể dùng để tạo những bờ biển mới phía ngoài con đê. [Hình 3]

Hình 3: Sơ đồ Đê Biển Cắt Thẳng từ trái, hướng ĐBSCL sang phải, hướng biển, xa lộ hai chiều, đường bảo quản, tường chắn sóng bão 200 năm.

Các giang cảng nội địa như cảng Cần Thơ sẽ được chuyển rời ra phía ngoài con đê. Sẽ có những “xa lộ đường dẫn” như hình nan quạt từ đê biển đi vào các cửa sông, tới nhữngtrung tâm thị tứ và các trọng điểm của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Rút ngắn được thời gian giao thông sẽ là một cải thiện đáng kể cho các bước phát triển kinh tế thịnh vượng của Đồng Bằng Sông Cửu Long.

Ngay từ ban đầu, ý thức được rằng đây là một công trình không chỉ có quy mô quốc gia, mà cả cho toàn Lưu vực Lớn Sông Mekong / Greater Mekong Subregion, với thời gian là những đơn vị “thập niên”, đòi hỏi một ngân sách rất lớnhàng chục tỉ USD, không chỉ từ ngân sách quốc gia, mà cần tới sự tài trợ của của các nước Mỹ, Nhật, Úc… và các cơ quan tài chánh quốc tế: WB/ World Bank, ADB/ Asia Development Bank…Theo ước tính sơ khởi, số tiền đầu tư cho dự án Đê Biền Chống Mặn Đồng Bằng Sông Cửu Long chắc hắn sẽ ít hơn so với số vốn 56 tỷ USD mà nhà nước định tài trợ cho siêu dự án Đường Sắt Cao Tốc.

Và quan trọng hơn hết là cần có một “think tank” tập hợp tất cả “chất xám” từ mọi lãnh vực chuyên môn từ thủy học, quan trắc địa chất, thay đổi khí hậu, môi sinh…của mọi tầng lớp người Việt trong nước cũng như bên ngoài, cùng với đội ngũ chuyên viên có kinh nghiệm từ hai quốc gia như Hòa Lan Vùng Đất Thấp và Hàn Quốc với công trình Saemageum và cũng không thể không nói tới Ủy Hội Sông Mississippi / Mississippi River Commission, từng có rất nhiều kinh nghiệm về đê điều và đang là tổ chức kết nghĩa với Sông Mekong từ tháng 7, 2009 do sáng kiến của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. (5)

Một Việt Nam sống còn

Nếu biết rằng, nửa sau của thế kỷ 21 này, sẽ không còn Đồng Bằng Sông Cửu Long một vựa lúa nuôi sống cả nước, Sông Tiền Sông Hậu sẽ là hai con sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền Văn Minh Miệt Vườn, không còn một phần hình hài trẻ trung và đầy sức sống của cả nước;trước kịch bản ấy, không thể không khởi động làm một điều gì và lời giải đáp chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, khởi đi từ tinh thần sáng tạo, hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện. Và cũng để nhắc lại, là sẽ không có cái giá để mặc cả và thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt.

Từ một đất nước trong suốt chiều dài lịch sử, luôn luôn chìm đắm trong những cuộc chiến tranh, cũng là biện minh cho sự thiếu vắng những công trình kỳ vĩ. Đây chính là thời kỳ để đất nước Việt Nam chuyển từ một nền “Văn Hóa Chiến Tranh / Culture of War” sang một nền “Văn Hóa Hòa Bình / Culture of Peace” cùng với bước đầu nhận thức phải thực hiện một công trìnhxây dựng không chỉcó tính cách “sống còn” nhưng tự nó đã là một kỳ quan về “kiến trúc sinh thái”trong Thiên Niên Kỷ của dân tộc Việt.

Nguồn an ninh lương thực thế giới

Việt Nam Thái Lan cho đến nay vẫn là hai nước sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới.Nhưng điều nghịch lý là nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long thì vẫn sống “dưới mức nghèo khó” và không những thế, con cháu họ còn đứng trước thảm họa “mất đất sống”. Với dân số trên trái đất này ngày càng gia tăng theo cấp số nhân, và các nguồn lương thực quan trọng lại đang bị đe dọa trầm trọng bởi chuỗi những thảm họado chính con người gây ra. Riêng với Đồng Bằng Sông Cửu Long, thảm họa không chỉ đến từ phương bắc do những con đập thượng nguồn Trung Quốc, từ phía đông nam do biển mặn dâng cao hậu quả của hâm nóng toàn cầu. Cứu Đồng Bằng Sông Cửu Long, không chỉ là cứu một phần đất đai màu mỡ của Việt Nam, nhưng cũng là cứu một vựa lúa quan trọng của thế giới. Hiểu như vậy, thì sựtham dự hỗ trợ của nhiều quốc gia khác trong công trình Con Đê Biển Đa Dụng Chống Mặn là một nghĩa vụ quốc tế trong thế kỷ toàn cầu hóa / globalization.

NGÔ THẾ VINH
California, 05-05-2011
Source: http//www.vietecology.org
Phải cứu sông Cửu Long bằng sáng kiến Lancang-Mekong

Dẫn nhập: Từ năm 1995 khi thành lập, tổ chức Mekong River Commission đã không tạo dựng phát triển bền vữngcho lưu vực mà lại dẫn các nuớc Mekong lâm vào tình cảnh bế tắc tại hạ lưu. Trong 15 năm qua lưu vực suy thoái nhanh chóng và an toàn thực phẩm và nguồn nước của dân cư bị đe dọa liên tục vì thiên tai lẫn nhân tai. Bốn nước Mekong sẽ không bao giờ có thể có phát triển bền vững khi các biến đổi lớn nhất lại nằm ở thượng lưu mà MRC không biết rõ và không theo dõi. Lancang-Mekong là dòng sông quốc tế, cả sáu nước cần phải hợp tác trong một chương trình toàn lưu vực— Lancang-Mekong Intitiative — ngay trong năm nay để đạt một hiệp ước “Lancang-Mekong Treaty” thì mới kịp thời cứu vãn an toàn thực phẩm, bảo vệ nguồn nước, phát triển lưu vực và tránh gây thiệt hại cho dân cư các nước vùng hạ lưu.

Hoàn cảnh bi đát

Lancang là thượng lưu (Upper Mekong Basin - UMB) và Mekong là hạ lưu (Lower Mekong Basin - LMB), hai đoạn của một dòng sông quốc tế, là cùng một hệ sinh thái mà ngư sinh vật và phù sa di chuyển không cần sổ thông hành qua các biên giới chính trị do con người làm ra, nhưng các hồ thủy điện lại ngăn cản chu trình tự nhiên này.

Hiệp định sông Mekong đã ký kết từ năm 1995 và Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission - MRC) đã được thành lập bởi bốn nước hạ lưu: Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan. MRC hoạt động dưới sứ mạng khuyến khích phát triển bền vững. Nhưng thực tế, từ năm 1995 đến nay, Mekong đã phát triển không bền vững mà còn hứng chịu hạn hán liên tiếp 8 mùa trong 15 năm qua; ngư sản đánh bắt được đã giảm dần trong khi nước mặn tiếp tục lấn sâu vào lục địa đe dọa vựa lúa và nông nghiệp Việt Nam. Những biến đổi này do cả nhân tai lẫn thiên tai và mỗi năm càng thêm khắc nghiệt. Hậu quả là môi trường và tài nguyên thiên nhiên lưu vực suy thoái nặng nề. MRC không có hành động thực tế chặn đứng sự suy thoái ấy, tuy có nghiên cứu và các kế họach quản trị hạn (Drought Management Plan - DMP) và lụt (Flood Management Plan - FMP), nhưng chỉ là mô hình lý thuyết, không thấy hành động thực tế như ngăn hạn hán, chống lụt lội, cản sạt lở, bảo vệ thiên nhiên, kế sinh nhai, an toàn nguồn nước và thực phẩm của dân cư lưu vực.

MRC nằm dưới sự chỉ đạo của cấp Bộ trưởng các nước Mekong và giới hạn phạm vi nghiên cứu trong vòng lãnh thổ chính trị của bốn nước thành viên, tức là chỉ ở hạ lưu và không nghiên cứu về tác động từ thượng lưu. Suốt hai thập niên qua, trên UMB tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (TQ) đã xây đập Mạn Loan (1993), Đại Chiếu Sơn (2001), Cảnh Hồng (2004, đập Tiểu Loan (2010) và sắp hoàn tất Nọa Trác Độ năm 2014; vậy mà cho đến năm 2009, MRC đã không làm nghiên cứu đánh giá tác động môi trường (Strategic Environmental Assessment - SEA) cho một dự án Vân Nam nào. MRC cũng không phê bình TQ về việc thiếu nghiên cứu SEA đối với hạ lưu. MRC không chất vấn TQ về những hứa hẹn tốt lành của các đập Vân Nam cho hạ lưu mà dân cư Mekong chưa bao giờ được thấy.

Báo cáo chiến lược tác động môi trường SEA 2010

Mãi đến năm 2010, MRC mới có một tường trình đánh giá chiến lược môi trường (SEA) cho 12 đập thủy điện dự trù trên Mekong [1]. Ban đầu MRC đã không hề nhắc đến tác động của 8 đập UMB trên Vân Nam trong các bản tường trình SEA 2010 sơ bộ. Nhưng bất ngờ, trong ấn bản sau cùng, SEA 2010 đã báo cáo tác động không những của 12 đập LMB trên Mekong mà còn cộng cả 8 đập UMB trên Lancang. Đây là một công trình nghiên cứu công phu rất đáng trân trọng. Trong phạm vi bài này, bản tường trình này tạm viết gọn là SEA 2010.

clip_image002

SEA 2010 có ước tính các lợi ích, sự phân bố lợi ích và các tác động tích cực lẫn tiêu cực trên lưu vực và tại từng quốc gia trong lưu vực.

Lợi ích của thủy điện LMB là sẽ cung cấp 14,697 MW công suất mà Lào sẽ thụ hưởng 70% lợi ích kể cả thu họach thủy điện. Việt Nam và Thái Lan sẽ tiêu thụ 90% năng lượng thủy điện này. Nhưng ich lợi đó lại không cân xứng với những thiệt hại xã hội và môi trường. Kết luận quan trọng nhất của SEA 2010 là khuyến cáo các nước Mekong nên trì hoãn kế hoạch xây 12 con đập LMB trên Mekong trong 10 năm để làm thêm các nghiên cứu cần thiết khác.

Tác động thủy điện thượng lưu UMB

so với hạ lưu LMB qua SEA 2010

Thể tích hồ chứa

Xét tất cả các dự án thủy điện đã có và đang dự tính xây chặn dòng chính trên toàn lưu vực Lancang-Mekong, thể tích 8 con đập quy ước (storage dam) của thượng lưu Lancang sẽ chiếm 78% thể tích tất cả các hồ chứa vì 12 con đập hạ lưu trên Mekong thuộc lọai đập không tạo hồ chứa (run-of-river) 22%.

Lancang Maintream Reservoirs


Reservoir

MAF

Storage

Storage/MAF



km3/yr

km3


1

Gongquiqiao*


0.51


2

Xiaowan

38.47

14.56

37.85%

3

Manwan

38.74

0.90

2.32%

4

Dachaoshan*


0.93


5

Nouzhadu

55.19

22.40

40.59%

6

Jinghong*


1.22


7

Galanba*


0.20


8

Mensong*


0.90




Subtotal UMB

41.12

78.08%

*Note: Data not stated in SEA 2010 added by Viet Ecology Foundation

Mekong Mainstream Reservoirs


Reservoir

MAF

Storage

Storage/MAF



km3/yr

km3


1

Pak Beng

96.50

0.28

0.29%

2

Luang Prabang

100.00

0.80

0.80%

3

Xayabuti

124.80

0.37

0.30%

4

Pak Lay

130.70

0.39

0.30%

5

Sanakham

133.80

3.78

2.83%

6

Pak Chom

141.60

0.10

0.07%

7

Ban Koum

294.60

0.63

0.21%

8

Lat Sua

294.60

0.12

0.04%

9

Don Shahong

325.10

0.03

0.01%

10

Stung Treng

432.50

1.55

0.36%

11

Sambor

405.80

3.49

0.86%

12

Thakho






Subtotal LMB

11.54

21.92%

Sự chênh lệch tổng số thể tích các hồ chứa giữa Lancang (thực hiện gần xong) và Mekong (chưa thực hiện) là gần 350% nên tỉ trọng tác động của UMB Vân Nam trên lưu vực rất nặng so với LMB hạ lưu.

Trọng tải phù sa theo SEA 2010 [1]

Theo SEA 2010, trọng tải phù sa năm 2000 từ Lancang vào Mekong chảy ra biển là 90 Mt/năm; 8 con đập Lancang trong 20 năm nữa sẽ ngăn cản 77% chỉ còn cho Mekong 20 Mt/năm. Tại Kratie sẽ có 168 tấn/năm nhưng 12 con đập Mekong sẽ ngăn cản 53% trọng tải này và chỉ cho 42 Mt/năm theo ra biển.

clip_image004

Thu hoạch ngư nghiệp theo SEA 2010 [1]

Theo tiên liệu của SEA 2010, các dự án thủy điện Lancang-Mekong từ năm 2015 đến 2030 sẽ làm Mekong mất đi từ 550.000 tấn đến 880.000 tấn cá họ có thể đánh bắt được. SEA 2010 không nói rõ ra, nhưng bản đồ cho thấy LMB sẽ mất đi 400.000 tấn cá trong khoảng 2000-2015 vì các đập UMB Vân Nam. Tổng cộng nếu tính từ năm 2000, LMB sẽ vĩnh viễn mất đi khoảng 1.220.000 tấn cá hàng năm hơn 50% số thu hoạch năm 2000.

Đạo diễn Tom Fawthrop đã thực hiện phim tài liệu “Where have all the fish gone” và xem tranh chấp trên Lancang-Mekong là một “Trận chiến trên sông Mekong” giữa đầu tư khai thác thủy điện và dân cư lưu vực (Battle over the Mekong) [2].

clip_image006

Những số liệu nêu trên chứng tỏ biến đổi trên thượng lưu UMB sẽ có ảnh hưởng quan trọng và sức tác động trực tiếp vào tình trạng bền vững của LMB hạ lưu. Mekong là nguồn sống của dân cư lưu vực nên kế hoạch phát triển cho Mekong bền vững được hay không sẽ phải lệ thuộc các tác động từ thượng lưu. Việc MRC giới hạn vùng nghiên cứu ở hạ lưu chẳng khác gì MRC đã tự bịt mắt mình và các chuyên gia của họ.

Tuy SEA 2010 đã soạn thảo rất công phu nhưng đã không làm rõ nét các tác động riêng của chuỗi đập UMB Vân Nam và không làm sáng tỏ kết luận quan trọng là phần lớn tác động là từ UMB thượng lưu xuống LMB hạ lưu.

Phải cứu Mekong thoát các tác động Lancang sắp đổ xuống

Mekong phải nằm dưới 8 con đập Vân Nam có tổng số thể tích 41 tỉ mét khối (Billion cubic meters - BCM) tương đương 72% lưu lượng trung bình hàng năm (Mean Annual Flow - MAF) Lancang cho Mekong [3] [4]. TQ đã tích lũy nước xong tại các hồ chứa Vân Nam từ năm 1995 tại 4 hồ thủy điện để hoạt động và TQ sẽ còn tích lũy nhiều hơn nữa tại các hồ tương lai. Cho đến nay, TQ chưa hề công bố lịch trình tích nước tại các hồ chứa cho hạ lưu biết để phòng nguy cơ cho họ.

Hai điều kiện rất quan trọng hạ lưu Mekong cần TQ bảo đảm khi xây dựng và điều hành các đập trên Lancang: (1) duy trì liên tục lưu lượng nước xả tối thiểu hàng tháng, đặc biệt trong mùa khô; và (2) duy trì lượng nước xả lũ cần thiết để có thể giúp làm đầy hồ Tonle Sap trong mùa mưa.

Các chính phủ quốc gia hạ lưu và MRC không thể chấp nhận TQ giữ bí mật các hoạt động của họ trên Vân Nam khi các hoạt động này tác động trực tiếp đến sinh kế có từ ngàn đời của hàng chục triệu dân cư và đe dọa vựa lúa của hai dân tộc Cam Bốt và Việt Nam như thế. MRC càng không thể ngồi yên mà cần tìm mọi phương cách điều tra và theo dõi động thái TQ tại các hồ chứa này. Rất tiếc, SEA 2010 đã không khuyến cáo MRC yêu cầu TQ trì hoãn chuỗi đập Vân Nam chậm lại một năm nào.

Hoa Kỳ đã nhận ra điều này này nên trong kế hoạch viện trợ Lower Mekong Initiative, Hoa kỳ sẽ cung cấp hệ thống điện toán “Forecast Mekong” để tiên liệu tác động của các hồ thủy điện trên Mekong và công bố kết quả rộng rãi trên internet cho công chúng và chuyên gia sử dụng [5]. Hệ thống Forecast Mekong sẽ giúp 65 triệu dân cư lưu vực có những thông tin mà TQ vẫn giữ bí mật không cho ai biết và MRC vẫn chỉ thụ động đợi chờ.

MRC cần tự hỏi mình ngay bây giờ, tuy đã rất muộn, nếu TQ vẫn tiến hành hoàn tất hết cả 8 con đập Vân Nam thì hạ lưu Mekong cần TQ điều hành hệ thống đó như thế nào để có thể tối thiểu hóa những thiệt hại ở hạ lưu hay ít nhất bảo đảm được những yêu cầu tối thiểu thường thấy trong việc điều hành các hồ chứa thủy điện. Điều bi đát là MRC cho đến nay chưa có những nghiên cứu để có thể xác định các yêu cầu tối thiểu này. Qua cung cách cố vấn và lãnh đạo của MRC trong 15 năm nay, bốn nước Mekong không thể giao cho MRC sứ mạng cứu vãn tình thế lưu vực và cũng không thể quanh quẩn bàn tính với nhau ở hạ lưu khi đầu mối nguy cơ lớn của Lancang-Mekong lại nằm trên Vân Nam.

Trong tình cảnh này, MRC và TQ sẽ không giúp đỡ gì cho Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tránh thất thoát, vậy ĐBSCL và Việt Nam đã có phương án gì giúp dân và đối phó với thượng lưu chưa?

Những hồ chứa lớn như Lancang trên thế giới thường phải cần 10 năm để chứa đầy nhưng xét theo lịch trình, cứ ba năm là TQ đã có thêm một đập mới hoạt động nên tác động xuống hạ lưu tăng lên gấp ba. Năm ngoái, mùa lũ đã không về ĐBSCL; toàn lưu vực Lancang-Mekong bị hạn hán đúng lúc TQ hoàn tất hồ Tiểu Loan để hoạt động; chắc chắn TQ đã tích lũy nước tại Tiểu Loan dù cho 2010 là năm khô hạn 50 năm kỷ lục. TQ đã cố trấn an hạ lưu, nhưng thực tế TQ đã cấm không cho ai đến gần các con đập Lancang và không cho ai kiểm chứng độc lập các tài liệu họ cung cấp. Năm ngoái, cá linh tại ĐBSCL đã khan hiếm đến nỗi thị trường tăng giá gấp 10 lần ngay trong mùa lũ mà đáng lý ra phải có rất nhiều và rẻ nhất. Sau đó, mực nước cuối lũ tăng lại do triều cường gây ra, không có việc TQ giúp tăng 40% lưu lượng nước xuống hạ lưu khi các hồ Vân Nam chưa đầy hết.

Trong năm 2011 đến 2014 TQ chắc chắn sẽ tích nước tại hồ chứa Nọa Trác Độ cho kịp hoạt động. TQ sẽ gây nguy khốn cho Mekong nhiều lần hơn trong những năm sắp tới. BS Ngô Thế Vinh đã tiên đoán “flood pulse” hay nhịp tim của Tonle Sap và có thể thêm vào cả ĐBSCL sẽ cùng nhau ngừng đập [6].

Nỗi cô đơn của Đồng bằng sông Cửu Long

TT Hun Sen đã bán linh hồn Cam Bốt cho TQ khai thác thủy điện và khoáng sản ngay trên Cam Bốt. TT Hunsen không phản đối mà còn hứng thú bênh vực các dự án khai thác thủy điện trên Vân Nam lẫn Cam Bốt. Như thế Tonle Sap chấp nhận chờ chết. Lào là nước sẽ hưởng lợi nhiều nhất và chịu ảnh hưởng ít nhất từ thủy điện nên sẽ chống chế cho mình và TQ đến cùng. ĐBSCL của Việt Nam sẽ phải bơi ngược dòng tìm lẽ sống tồn tại.

MRC cho đến nay đã không tự mình tìm hiểu cung cách sử dụng nguồn nước, cách tích lũy điều hành các hồ chứa, cách chuyển nước và số liệu khí tượng thủy văn trong vùng Vân Nam để MRC đánh giá hệ lụy từ TQ giáng xuống hạ lưu. MRC chưa bao giờ hỏi TQ tại sao TQ không xả nước giúp hạ lưu khi ĐBSCL kêu cứu hay ngăn nước giảm nhẹ bớt lũ khi Vientiane kêu cứu. Ngược lại, có khá nhiều lần MRC công khai bênh vực TQ.

Chính ông Jeremy Bird đã tỏ ra lạc quan khi TQ tuyên bố sẽ cung cấp cho Mekong các thông tin của họ [7]. Vậy mà, từ đó đến nay MRC vẫn không có giải thích nào việc mực nước thất thường và gián đoạn thông tin. Các dữ kiện Vân Nam của TQ tới nay vẫn chưa xuất hiện trở lại. MRC có lẽ chẳng bận tâm mấy về sự gián đoạn thông tin này từ TQ cũng như không bận tâm về thắc mắc của Hội Sinh thái Việt (HSTV). MRC xem thường công luận và công bố trên website MRC như sau [8]: “No special obligations or responsibilities applied to the general public” [9].

“Không có ràng buộc hay trách nhiệm đặc biệt gì với công chúng”.

Vào tháng 10 năm 2010, ĐBSCL không thấy lũ về, Hội Sinh thái Việt (HSTV) phát hiện lưu lượng hạ xuống quá bất thường tại Chiang Saen vào ngày 30 tháng 10, 2010 từ 4750 m3/giây xuống 2750 m3/giây trong bốn ngày theo dữ kiện trên website của MRC mà MRC đã không có giải thích nào. HSTV đã viết thư yêu cầu MRC giải thích nhưng không được MRC quan tâm trả lời [10].

clip_image008

clip_image010

Nguồn: MRC [11] [12]

ĐBSCL đã bị bỏ rơi quá lâu thành nạn nhân của tắc trách, thiển cận và yếu hèn; ĐBSCL không thể để sự sinh tồn của hàng chục triệu dân cư bị hủy diệt. ĐBSCL và chính quyền Việt Nam không thể trông đợi ai khác, mà ngay bây giờ cần điều chỉnh cung cách lãnh đạo của MRC. VN cần thuyết phục Cam Bốt và Lào dè dặt lại trước mối nguy hiểm tiềm ẩn sau những đồng tiền viện trợ và đầu tư ồ ạt của TQ vào Lào và Cam Bốt. Quan trọng hơn hết là VN cần liên kết chặt chẽ với Thái Lan để cùng phản đối 8 con đập Vân Nam và yêu cầu TQ tôn trọng sự sinh tồn của ĐBSCL, xác định quyền lợi cốt lõi của VN trên Lancang-Mekong bằng tất cả những phương cách ngoại giao khôn khéo và quyết liệt nhất mà VN có thể làm.

Lancang-Mekong Initiative

Nguồn nước là tài nguyên thiên nhiên quý báu nhất mà các dân tộc chung một dòng sông đòi đời sẽ cùng chia sẻ. Các dòng sông quốc tế chảy qua nhiều biên giới quốc gia thường trở thành nguồn gốc tranh chấp quyền lợi nước giữa các dân tộc. Trên thế giới có trên 300 dòng sông quốc tế và đã có trên 400 thỏa hiệp sông ngòi quốc tế. Âu Châu đã có các thỏa hiệp quốc tế từ 1815 nhờ họ sớm nhận thức tranh chấp không giải quyết và sẽ là bức tường ngăn cản tất cả những cơ hội hợp tác kinh tế và chính trị khác mà hậu quả là thiệt thòi nặng nề chung cho toàn lưu vực.

Trở về với Lancang-Mekong, trước sự suy thoái thể hiện trước mắt trên lưu vực Lancang-Mekong, sự vô hiệu của MRC và vô cảm của TQ, sự bất lực của hạ lưu và mối nghi ngờ TQ ở thượng lưu ngày càng sâu đậm, đã đến lúc phải tìm giải pháp toàn bộ cho lưu vực. HSTV trân trọng đề nghị lãnh tụ sáu nước Lancang-Mekong cần họp lại tìm một đáp án quốc tế cho toàn lưu vực bằng Sáng kiến Lancang-Mekong (Lancang Mekong Initiative - LMI). Chỉ có LMI có cả 6 nước lưu vực mới có thể cùng nhau đi đến một hiệp ước quốc tế Lancang-Mekong Treaty.

Lancang Mekong Intitative (LMI) không thể theo bước MRC vì MRC đã đi vào bế tắc, mất sự tin cậy và không thể hiện được tư cách độc lập và khoa học trong sáng. Tuy nhiên LMI không phải vì thế bắt đầu từ số không vì đã có sẵn những luật lệ sông ngòi quốc tế làm căn bản để thỏa hiệp.

Liên Hiệp Quốc đã thông qua bộ luật “The United Nations Convention on the Law of the Non-Navigational Uses of International Water Courses” vào năm 1997. Bộ luật Helsinki Rules (1996) và Berlin Rules (2004) đều đem nguyên tắc “không gây thiệt hại đáng kể cho các nước khác” (not to cause significant harm to other riparians) và nguyên tắc “sử dụng hợp lý và công bình” (reasonable and equitable utilization) làm nền tảng thỏa hiệp giữa các dân tộc [13,14, 15].

Từ năm 2011 đến 2014 là thời gian và cơ hội cuối cùng cho Lancang-Mekong thực hiện LMI để còn kịp thời bảo vệ và vãn hồi môi sinh đang thoi thóp ở hạ lưu. LMI là cơ hội lớn để TQ chủ động chung với các nước láng giềng vì quyền lợi và uy tín của chính TQ. Nếu TQ tham gia, tiềm năng thành công của LMI rất cao vì TQ có khả năng, phương tiện và uy tín trong khi các nước Mekong có thiện chí và nhu cầu cấp bách để hợp tác với TQ hơn bất cứ cường quốc thế giới nào khác vào lúc này.

HSTV yêu cầu các NGO quốc tế và các học giả quốc tế cũng như trí thức TQ và các dân tộc ở lưu vực Mekong thúc đẩy các chính quyền tiến hành sáng kiến LMI như lộ trình hay con đường cái quan tốt nhất để cùng phát triển bền vững toàn lưu vực, để không ai còn bị nghi ngờ là ích kỷ thủ lợi một mình hay gây cho một phần dân tộc nào phải gánh chịu thiệt hại nặng nề vì mình nữa.

Lịch sử sẽ không khoan dung nếu Lancang-Mekong không có một hiệp ước quốc tế khi cơ hội hy vọng cuối cùng vẫn còn. Các dân tộc và chính phủ Lancang-Mekong hãy viết nên lịch sử dòng sông bằng một LMI và ký kết Lancang Mekong Treaty không phải sau 2014 mà ngay trong năm 2011.

Phạm Phan Long - Hội Sinh Thái Việt

Cứu lấy sông Mekong bằng cách nào ?

Ngọc Trân, thông tín viên RFA (2011-02-09)

Sông Mekong đã và đang có những đóng góp quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội cho Việt Nam.

AFP

Sông Mekong trên địa phận Trung Quốc, bến phà Lancang bên trái phía phải sông là tỉnh Guanlei, Miến Điện.

Bên cạnh việc cung cấp nước cho vựa lúa lớn nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long, với khoảng 80% lượng gạo xuất khẩu trên cả nước, sông Mekong còn cung cấp nước để khai thác và nuôi trồng thủy sản, đóng góp không nhỏ cho ngành xuất khẩu thủy sản trên cả nước.
Những đóng góp quan trọng của con sông Mekong cho sự phát triển ở Việt Nam nói riêng, và các nước trong khu vực nói chung, có lẽ sẽ không còn nữa nếu như chúng ta không có những hành động kịp thời để cứu lấy con sông, khi mà lượng nước đổ về hạ lưu Mekong đang ngày càng cạn kiệt. Thông tín viên Ngọc Trân phỏng vấn kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Hội Sinh thái Việt, để làm rõ thêm một số vấn đề liên quan đến con sông này.

Mekong cạn dòng

Ngọc Trân: Thưa ông Phạm Phan Long, theo thông tin từ Ủy hội sông Mekong (Mekong River Commission - MRC), một tổ chức gồm bốn nước: Việt Nam, Lào, Campuchia và Thái Lan, hồi tháng 11 năm ngoái cho biết, mực nước tại trạm quan trắc Chiang Saen, nơi gần biên giới Trung Quốc, đang từ 4 mét, hiện đã giảm xuống chỉ còn 2 mét, tức giảm khoảng 50%. Mực nước ở tất cả các trạm từ Chiang Saen đến Tân Châu hiện cũng đã giảm từ khoảng 50% đến 70%. Riêng mực nước tại các trạm Vientian, Savanakhet, Tân Châu đã giảm đáng
Uỷ Hội Sông Mekong có hai trụ sở chính một ở Campuchia và một ở bên Lào.
Uỷ Hội Sông Mekong có hai trụ sở chính một ở Campuchia và một ở bên Lào.
kể, xuống chỉ còn dưới 1 mét.
Hiện mực nước ở các vùng hạ lưu đã giảm xuống bằng mực nước những năm hạn hán 1992-1993 và 2003-2004. Năm ngoái, hạn hán đã gây thiệt hại nặng cho các khu vực hạ lưu và điều này sắp tái diễn trong năm nay. Biển Hồ Tonle Sap và vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ ra sao trong tương lai, thưa ông?
Nếu lưu lượng nước tiếp tục giảm như thế, lưu vực sẽ đi đến chết khát. Nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp, ba kế sinh nhai truyền thống ngàn đời của sáu mươi triệu dân cư lưu vực sẽ bị đe dọa.
Ô. Phạm Phan Long
Ông Phạm Phan Long: Nếu lưu lượng nước tiếp tục giảm như thế, lưu vực sẽ đi đến chết khát. Nông nghiệp, chăn nuôi và ngư nghiệp, ba kế sinh nhai truyền thống ngàn đời của sáu mươi triệu dân cư lưu vực sẽ bị đe dọa.
Nạn nghèo, đói, thiếu nước và bệnh tật sẽ hoành hành cùng các hệ quả xã hội xấu đi kèm theo sau. An toàn thực phẩm và nguồn nước sẽ suy thoái đến độ dân cư không còn sinh sống được nữa. Ký giả, tác giả và đạo diễn Tom Fawthrop đã ghi nhận tình cảnh này trong phim tài liệu “Cá đã đi về đâu?” và BS Ngô Thế Vinh, tác giả “Dòng Sông Nghẽn Mạch”, cho rằng trái tim Biển Hồ sẽ dần dần ngừng đập.

Đâu là nguyên nhân?

Ngọc Trân: Đâu là nguyên nhân gây ra nạn hạn hán, lũ lụt thường xuyên xảy ra và ngày càng khắc nghiệt trong những năm qua, thưa ông?
Ông Phạm Phan Long: Đã có rất nhiều tường trình khoa học nêu ra các nguyên nhân chính, cả thiên tai lẫn nhân tai. Thứ nhất, do biến đổi khí hậu bất thuờng, cho nên cả lưu vực có ít mưa hơn. Kế đến là nạn phá rừng đã làm biến mất thảm thực vật, vốn là kho trữ nước tự nhiên của lưu vực. Thứ ba là do các hồ chứa nước ở thượng nguồn, đã tích nước lại quá nhiều và quá nhanh. Và thêm một nguyên nhân nữa đó là, nước được chuyển ra khỏi dòng chính để canh tác. Tất cả đã góp phần gây hạn hán cho khu vực hạ nguồn sông Mekong.
Ngọc Trân: Ông vừa nhắc đến các tường trình khoa học về nguyên nhân gây ra hạn hán, lũ lụt ở hạ nguồn
Đập Nam-Theun cua Lào trên sông Mekong
Đập Nam-Theun cua Lào trên sông Mekong. RFA
Mekong, theo các báo cáo của giới khoa học thì một trong những nguyên nhân chính gây nguy hại cho các nước hạ nguồn là việc phát triển các đập thủy điện ở thượng nguồn. Trên các con đập này, Trung Quốc đã cho xây trên dòng chính nhiều hồ lớn chứa nước rất lớn, vậy ông có biết Ủy hội sông Mekong đã đối phó với việc này ra sao?
nạn phá rừng đã làm biến mất thảm thực vật, vốn là kho trữ nước tự nhiên của lưu vực. Thứ ba là do các hồ chứa nước ở thượng nguồn, đã tích nước lại quá nhiều và quá nhanh. Và thêm một nguyên nhân nữa đó là, nước được chuyển ra khỏi dòng chính để canh tác.
Ô. Phạm Phan Long
Ông Phạm Phan Long: Suốt hai thập niên qua, trên thượng nguồn thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đã cho xây các đập Mãn Loan hồi năm 1993, đập Đại Chiếu Sơn năm 2001, đập Cảnh Hồng năm 2004, đập Tiểu Loan năm 2010 và đập Nọa Trác Độ sẽ hoàn tất trong năm 2014.
Mãi cho đến năm 2009, Ủy hội sông Mekong đã không làm nghiên cứu, đánh giá tác động môi trường chiến lược (Strategic Environmental Assessment - SEA) cho các dự án xây đập thủy điện nào ở tỉnh Vân Nam. Ủy hội sông Mekong cũng không phê bình Trung Quốc về việc thiếu nghiên cứu, đánh giá tác động môi trường đối với các nước hạ lưu.
Tổ chức này cũng không hề chất vấn Trung Quốc về những hứa hẹn tốt đẹp của các đập ở tỉnh Vân Nam cho hạ lưu mà dân cư Mekong chưa bao giờ được thấy.
Các nước hạ lưu như Thái, Lào và Việt Nam đã xây nhiều đập trên các phụ lưu của từng nước, nhưng không có đánh giá tác động môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế và các nước này đang đưa ra một dự án, xây thêm
Thác Khone của sông Mekong trên địa phận Lào.
Thác Khone của sông Mekong trên địa phận Lào.
mười một đập ngay trên dòng chính.
Mãi đến tháng 10 năm ngoái, Ủy hội sông Mekong mới đưa ra tường trình, thẩm định tác động môi trường 2010 của tám đập thượng nguồn ở tỉnh Vân Nam và mười một con đập ở hạ lưu sông Mekong.

Mời các bạn tìm hiểu cội nguồn sông Mekong qua video "Nhật ký sông MêKông (phần 1): Cội Nguồn", do RFA thực hiện.

Ủy hội sông Mekong đã khuyến cáo bốn nước hạ lưu nên hoãn kế hoạch xây các đập trên sông Mekong trong mười năm, nhưng tiếc rằng họ đã không đề nghị Trung Quốc cùng ngưng xây đập hay cùng hợp tác với họ để bảo vệ hạ lưu sông Mekong
Ô. Phạm Phan Long

Trong bản đánh giá này, Ủy hội sông Mekong đã khuyến cáo bốn nước hạ lưu nên hoãn kế hoạch xây các đập trên sông Mekong trong mười năm, nhưng tiếc rằng họ đã không đề nghị Trung Quốc cùng ngưng xây đập hay cùng hợp tác với họ để bảo vệ hạ lưu sông Mekong.

Trung Quốc thiếu hợp tác với các nước hạ lưu

Ngọc Trân: Được biết, Trung Quốc vẫn cho rằng các hồ thủy điện trên phần đất Trung Quốc không gây tác động nào đối với các nước hạ nguồn mà còn giúp khu vực này có thêm 40% lưu lượng nước vào mùa khô và tránh lụt lội vào mùa mưa.
Một số tin tức cho biết, phía Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với các nước hạ lưu qua việc cung cấp thông tin về các con đập thượng nguồn cho Ủy hội sông Mekong, cũng như hồi mùa Hè năm ngoái, Trung Quốc đã mời các chuyên gia Ủy hội sông Mekong đến thăm hai đập Cảnh Hồng và Tiểu Loan, nhằm chứng minh rằng họ không tích nước gây hạn hán cho hạ lưu. Vậy quan điểm của ông, cũng như quan điểm chung của giới khoa học về vấn đề này như thế nào?
Ông Phạm Phan Long: Tường trình khoa học về đánh giá tác động môi trường 2010 của Ủy hội sông Mekong đã xác định, tám đập Vân Nam sẽ giữ lại 80% lượng phù sa, không chảy xuống hạ lưu, gây ra 50% thất thoát trong thu hoạch ngư nghiệp.
Những nhánh nhỏ của sông Mekong cũng nuôi sống biết bao gia đình vùng ĐBSCL. RFA
Những nhánh nhỏ của sông Mekong cũng nuôi sống biết bao gia đình vùng ĐBSCL. RFA
Hệ quả còn nặng hơn nữa, là vì ngư sản là nguồn cung cấp chất đạm chính cho dân cư trong khu vực, khi tính đến gia tăng dân số, thu hoạch ngư nghiệp tính trên đầu người so với năm 2000, chỉ còn có khoảng 60% vào năm 2015, còn 40% vào năm 2030.Từ 1995 đến nay, Trung Quốc đã xây bốn hồ chứa, có tổng dung tích gần 18 tỉ mét khối, nhưng qua tám mùa hạn hán trong 15 năm qua, chưa năm nào thấy Trung Quốc xả nước từ các hồ chứa đó để giúp các nước hạ lưu, cũng chưa có năm nào Trung Quốc giúp khu vực hạ lưu tránh được lũ lụt.
Thêm vào đó, mực nước lên xuống thất thường từ Trung Quốc đã gây khó khăn cho hai nước Thái Lan và Lào.
Mặc dù Trung Quốc có mời Ủy hội sông Mekong đến thăm hai đập Cảnh Hồng và Tiểu Loan ở Trung Quốc hồi tháng 6 năm 2010, nhưng Trung Quốc đã không cho các chuyên gia của Ủy hội được tự do quan sát và nghiên cứu. Nếu Trung Quốc thực tâm muốn hợp tác, họ đã mời các chuyên gia đến quan sát tất các hồ chứa nước ở Vân Nam, gồm các đập Đại Chiếu Sơn, Mãn Loan và Nọa Trác Độ, để công khai với các nước rằng, Trung Quốc không có gì để che giấu.
Về thông tin Ủy hội sông Mekong xin các dữ kiện thủy văn của Trung Quốc và năm ngoái Trung Quốc có hứa cho Ủy hội các dữ kiện này, nhưng phía Trung Quốc chỉ cung cấp các dữ kiện được vài tháng rồi thôi. Phía Trung Quốc đã ngừng cung cấp các dữ kiện nói trên kể từ tháng 10 năm 2010 mà không hề đưa ra một lời giải thích nào cho công chúng.
Sự việc này cho thấy, Trung Quốc không những đã không còn hợp tác với Ủy hội như họ đã tuyên bố, mà còn tạo thêm mối nghi ngờ cho các nước ở hạ lưu ngày càng sâu hơn.
Con sông đã và đang nuôi sống hàng chục triệu cư dân ở các nước hạ nguồn đang từ từ bị giết chết. Trách nhiệm này thuộc về ai? Chính phủ và người dân ở các nước trong khu vực cần làm gì để cứu lấy sông Mekong trước khi quá muộn? Ai sẽ chịu trách nhiệm về cái chết đã được báo trước của con sông này? Các nước hạ nguồn nên có những hành động gì trước khi quá muộn? Mời quý vị theo dõi tiếp cuộc trao đổi giữa Thông tín viên Ngọc Trân với kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Hội Sinh thái Việt.

Trách nhiệm thuộc về ai?

Ngọc Trân: Thưa ông, trước thảm trạng thiên tai lẫn nhân tai xảy ra trên sông Mekong, ai sẽ là người chịu trách nhiệm? Chính phủ ở các nước hạ nguồn và Ủy hội sông Mekong đã làm gì để đối phó với sự cạn kiệt nguồn nước, môi trường ô nhiễm, đe dọa hàng chục triệu cư dân trong khu vực?
Chính quyền các nước hạ nguồn sẽ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm với dân cư lưu vực. Bốn nước hạ lưu như Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan đã ký Hiệp định sông Mekong từ năm 1995
Ông Phạm Phan Long: Chính quyền các nước hạ nguồn sẽ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm với dân cư lưu vực. Bốn nước hạ lưu như Việt Nam, Cam Bốt, Lào và Thái Lan đã ký Hiệp định sông Mekong từ năm 1995 và giao phó cho Ủy hội sông Mekong nhiệm vụ khuyến khích phát triển bền vững. Nhưng thực tế từ năm 1995 đến nay, Mekong đã phát triển không bền vững. Số lượng ngư sản đánh bắt đã giảm 50% và trọng tải phù sa cũng đã giảm 80%, trong khi nước mặn tiếp tục lấn sâu vào lục địa, phá hủy kinh tế nông nghiệp ở Đổng bằng Sông Cửu Long. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở vùng hạ lưu đã liên tục bị suy thoái trong suốt thời gian kể từ khi Ủy hội sông Mekong thành lập.
Ủy hội sông Mekong, trụ sở ở Vientiane Lào
Ủy hội sông Mekong, trụ sở ở Vientiane Lào. RFA file
Ủy hội sông Mekong có chương trình quản trị hạn hán (Drought Management Plan - DMP) và lũ lụt (Flood Management Plan - FMP), thế nhưng các chương trình này chỉ là lý thuyết và hiện chỉ nằm ở các trang tài liệu, chứ chưa có hành động cụ thể nào có thể tin cậy được, nhằm giúp ngăn bớt hạn hán, chống bớt lụt lội khả dĩ bảo vệ được môi trường, kế sinh nhai, an toàn nguồn nước và thực phẩm của dân cư lưu vực.
Các tổ chức NGO quốc tế cũng như các chuyên gia khoa học đã cảnh báo về các tác động thiên tai lẫn nhân tai qua nhiều thập niên, nhưng chính quyền các nước hạ lưu sông Mekong đã không hành động, không nâng việc bảo vệ nguồn sống cho dân cư Mekong
Các tổ chức NGO quốc tế cũng như các chuyên gia khoa học đã cảnh báo về các tác động thiên tai lẫn nhân tai qua nhiều thập niên, nhưng chính quyền các nước hạ lưu sông Mekong đã không hành động, không nâng việc bảo vệ nguồn sống cho dân cư Mekong thành quốc sách với ưu tiên và hậu thuẫn chính trị tương xứng. Không những thế, tất cả các nước trong lưu vực đã và đang có hàng loạt dự án thủy điện và chuyển nước quy mô, điều này sẽ gây thêm nguy khốn cho dân cư lưu vực.

Sáng kiến Langcang – Mekong

Ngọc Trân: Trước tình hình đó, chính phủ các nước hạ nguồn sông Mekong hiện cần phải làm gì để cứu vãn môi sinh và sinh kế cho toàn bộ dân cư trong khu vực hạ lưu?
Ông Phạm Phan Long: Chính quyền bốn nước và Ủy hội sông Mekong cần chấp thuận khuyến cáo đánh giá tác động môi trường của Ủy hội sông Mekong, quyết định ngưng xây đập Xayaburi ở Lào và 10 con đập còn lại trên sông Mekong.
Ngoài ra, những biện pháp khác mà các nước hạ lưu có thể làm, bao gồm: lập quỹ bảo vệ môi trường và cứu trợ hạn hán, lũ lụt (Mekong Fund); phục hồi rừng và thảm thực vật; phát triển nông ngư nghiệp, sống với hạn hán và sống với mặn như đã sống với phèn và sống với lũ; phát triển hoạt động kinh tế huấn nghệ bớt dựa vào thiên nhiên sông hồ; trong 10 năm tới nghiên cứu thủy điện theo tiêu chuẩn quốc tế và cần có dung tích hồ chứa dành riêng cho ưu tiên chống lụt và giảm hạn.
Hội Sinh thái Việt trân trọng đề nghị lãnh đạo sáu nước Lancang – Mekong họp lại, cùng nhau tìm một đáp án quốc tế cho toàn khu vực bằng Sáng kiến Lancang – Mekong. Chỉ khi nào cả 6 nước cùng nhau thương lượng ký kết một hiệp ước quốc tế Lancang – Mekong Treaty thì mới có thể mong cứu được Mekong.
Nguồn nước là tài nguyên thiên nhiên quý báu nhất mà các dân tộc chung một dòng sông đời đời cùng chia sẻ. Các dòng sông quốc tế chảy qua nhiều biên giới quốc gia thường trở thành nguồn gốc tranh chấp quyền lợi nước giữa các dân tộc. Trên thế giới có trên 300 dòng sông quốc tế và đã có trên 400 thỏa hiệp sông ngòi quốc tế.
Âu châu đã có các thỏa hiệp quốc tế từ năm 1815, nhờ họ sớm nhận thức, tranh chấp không giải quyết sẽ là bức tường ngăn cản tất cả mọi cơ hội hợp tác kinh tế và chính trị khác, mà hậu quả là thiệt thòi nặng nề chung cho toàn lưu vực.
Trước sự suy thoái trên lưu vực Lancang – Mekong, sự vô hiệu của Ủy hội sông Mekong, sự vô cảm của Trung Quốc, cùng với sự bất lực của các nước hạ lưu và mối nghi ngờ Trung Quốc ở thượng lưu ngày càng sâu đậm, đã đến lúc phải tìm giải pháp toàn bộ cho lưu vực Lancang – Mekong.
Hội Sinh thái Việt trân trọng đề nghị lãnh đạo sáu nước Lancang – Mekong họp lại, cùng nhau tìm một đáp án quốc tế cho toàn khu vực bằng Sáng kiến Lancang – Mekong (Lancang Mekong Initiative - LMI). Chỉ khi nào cả 6 nước cùng nhau thương lượng ký kết một hiệp ước quốc tế Lancang – Mekong Treaty thì mới có thể mong cứu được Mekong.

Dựa trên luật pháp quốc tế

Ngọc Trân: Theo ông thì có nên nâng cấp Ủy hội sông Mekong để cả 4 nước cùng Myanmar và Trung Quốc tham gia hiệp ước quốc tế này không?
Sáng kiến Lancang – Mekong (LMI) sẽ không thể thành công bằng cách làm theo Ủy hội sông Mekong, bởi vì Ủy hội đã đi vào bế tắc, mất sự tin cậy và không thể hiện được tư cách độc lập và khoa học trong sáng. Tuy nhiên Sáng kiến Langcang – Mekong không phải vì thế mà bắt đầu từ số không, bởi vì đã có sẵn những luật lệ sông ngòi quốc tế làm căn bản để thỏa hiệp.
Liên Hiệp Quốc đã thông qua bộ luật sử dụng nguồn nước quốc tế: “The United Nations Convention on the Law of the Non-Navigational Uses of International Water Courses” vào năm 1997. Các quy tắc mang tính quốc tế trong Helsinki Rules ra đời năm 1996 và Berlin Rules năm 2004 đều dựa trên nguyên tắc “không gây thiệt hại đáng kể cho các nước khác” và nguyên tắc “sử dụng hợp lý và công bình”, làm nền tảng thỏa hiệp giữa các dân tộc.
Các quy tắc mang tính quốc tế trong Helsinki Rules ra đời năm 1996 và Berlin Rules năm 2004 đều dựa trên nguyên tắc “không gây thiệt hại đáng kể cho các nước khác” và nguyên tắc “sử dụng hợp lý và công bình”, làm nền tảng thỏa hiệp giữa các dân tộc.
Từ nay đến năm 2014 là thời gian Trung Quốc hoàn tất đập Nọa Trác Độ và và đây là thời gian ngắn ngủi còn
Phía bắc Vân Nam, là những dãy núi băng tuyết là nguồn nước rót vào đầu nguồn sông Meko
Phía bắc Vân Nam, là những dãy núi băng tuyết là nguồn nước rót vào đầu nguồn sông Mekong.
lại cho các nước Lancang – Mekong kịp thời bảo vệ và vãn hồi môi sinh đang thoi thóp ở hạ lưu.
Sáng kiến Langcang – Mekong là cơ hội lớn để Trung Quốc cùng với các nước láng giềng chủ động thực hiện nhằm bảo vệ quyền lợi của các nước hạ lưu và uy tín của chính Trung Quốc. Nếu Trung Quốc tham gia, tiềm năng thành công của Sáng kiến Langcang – Mekong sẽ rất cao, bởi vì Trung Quốc có khả năng, phương tiện và uy tín trong khi các nước Mekong có thiện chí và nhu cầu cấp bách để hợp tác với Trung Quốc hơn bất cứ cường quốc nào khác trên thế giới vào lúc này.
Ngọc Trân: Trung Quốc là một nước lớn ở trên thượng nguồn và họ không có nhiều quyền lợi ở dưới hạ nguồn, vậy họ có cần giải quyết tranh chấp Mekong với các nước nhỏ ở hạ lưu trong bối cảnh lịch sử hiện nay hay không, thưa ông?
yêu cầu các NGO quốc tế, các học giả quốc tế, cũng như trí thức Trung Quốc và các dân tộc sống ở lưu vực sông Mekong cùng nhau thúc đẩy các chính phủ trong khu vực tiến hành Sáng kiến Langcang – Mekong như lộ trình tốt nhất để cùng phát triển bền vững toàn lưu vực
Trung Quốc có quyền lợi chiến lược với ASEAN mà Trung Quốc cần phát triển và bảo vệ cho các nước này như chính họ, bởi vì tổng số mậu dịch của Trung Quốc với ASEAN là 300 tỉ đô la, ngang hàng và sắp vượt qua với khối Liên minh châu Âu, chỉ sau Hoa Kỳ. Nhận thức này sẽ đưa Lancang – Mekong lên hàng đầu trong các vấn đề bang giao của Trung Quốc trong khu vực và nhất là khi Trung Quốc biết nhìn xa như Hoa Kỳ và Âu châu.
Sáng kiến Langcang – Mekong là đề nghị của Hội Sinh Thái Việt, nên hội sẽ giúp vận động, yêu cầu các NGO
Bến phà Lancang bên phía Trung Quốc. AFP
Bến phà Lancang trên sông Mekong bên phía Trung Quốc. AFP
quốc tế, các học giả quốc tế, cũng như trí thức Trung Quốc và các dân tộc sống ở lưu vực sông Mekong cùng nhau thúc đẩy các chính phủ trong khu vực tiến hành Sáng kiến Langcang – Mekong như lộ trình tốt nhất để cùng phát triển bền vững toàn lưu vực, để không ai còn bị nghi ngờ là ích kỷ, thủ lợi một mình hay gây thiệt hại nặng nề cho một dân tộc nào ở hạ lưu phải gánh chịu.
Lịch sử sẽ không khoan dung nếu Lancang – Mekong không có một hiệp ước quốc tế khi cơ hội hy vọng cuối cùng vẫn còn. Các dân tộc và chính phủ Lancang – Mekong hãy viết nên lịch sử dòng sông bằng Sáng kiến Langcang – Mekong và cùng ký kết Lancang – Mekong Treaty, không phải đợi sau năm 2014 mà ngay trong năm 2011 để cứu lấy con sông Mekong và hàng triệu cư dân đang sống nhờ vào nó.
Ngọc Trân: Xin cảm ơn ông đã dành thời gian cho buổi phỏng vấn này.

Ðọc “Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch” của Ngô Thế Vinh

Nguồn cá tôm cạn kiệt qua hình ảnh ông lão 60 với 40 năm tuổi nghề sống với đàn chim cốc /cormorants dùng để săn cá, nay nguồn thu nhập cá không còn như trước nên ông và đàn chim cốc phải sống bằng ti ền của du kh ách.

Và tác giả đưa ra một lời tiên đoán bi quan: “Dù sớm hay muộn, chuỗi đập bậc thềm Vân Nam sẽ từng bước được tiến hành đem lại những lợi lộc vô hạn và sẽ không có thế lực nào cản trở được họ. Điều ấy là chắc chắn”

Mặc dầu trên thế giới có 1400 triệu kilômét khối nước trên toàn cầu. Vậy mà nước vẫn thiếu. Éthiopie nước quý như dầu lửa. Ả Rập Sô Đi phải lọc nước biển để tưới cây.

Ngày Nước Thế Giới / World Water Day năm nay [22 tháng 3, 20007] với chủ đề: “Coping with Water Scarcity /Đối phó với nạn Khan hiếm Nước” bằng cách quản trị những nguồn nước trong sự công bình và lẽ phải, tôn trọng các vấn đề văn hóa và đức lý khi phải đối phó với sự giới hạn của nước.

Cho nên, việc tranh chấp về nguồn nước sông Mekong trong tương lai là điều khó tránh được như nhận xét của bản phúc trìnnh The Politics of scale, Position, and Pace in the Governance of Water Resources in the Mekong Region:” Looking to the future, the drivers for increasing water demand in the coming đecades are strong. States face rising đemand for water to generate electricity, to supply irrigation systems, and to service new urbain and industial areas … At the same time, efforts to maintain water quality and protect aquatic and flooplain ecosystems have becoming increasingly đifficult ( Dugeon 2000, Economy 2004) .

Conflicts over water in the Mekong region however, are often more nuanced than a contest between monolithic state and united community interest”.

Cũng vậy, khi dự án Kong-Chi-Mun và Kok-Ing-Nan của Thái Lan đã bị VN phản đối. Dự tính lấy nước từ sông Mekong với lưu lượng chuyển dòng là 300m3/giây năm 1992 đã bị VN phản đối mạnh mẽ, yêu cầu Thái Lan hủy bỏ kế hoạch vì vì hậu quả cạ n dòng làm tă ng nhiễm mặn nơi đồng bằng sông Cửu Long.

Trong chuyến đi này, tác giả Ngô Thế Vinh đã xác nhận rằng: “Chuyến đi càng củng cố thêm nhận định của tôi về những bước suy thoái của con sông Mekong”

Đồng bằng sông Cửu Long cạn kiệt

Qua nhân vật Cao trong Cửu Long Cạn Dòng thì: Quê hương thứ hai của anh bây giờ là cả một dòng sông. Nhớ lại mảnh đất quê hương ấy với những khu rừng trầm thủy, với vàm rạch hoang vu, với cá sấu như rươi mà muỗi kêu như sáo thổi , mà đỉa lềnh như bánh canh, và đã trở thành vùng đất hứa của một nền văn minh lúa gạo- civilisatiuon du riz. ĐBSCL là nơi dễ sống, làm chơi mà ăn thi ệt.

Truớc đây “Đó là nơi lạc thổ. nhiều dìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng chẳng ai thèm bắt” [Sơn Nam trong ĐBSCL]

Nhưng rồi « Nay thì chính người nông dân Nam Bộ hào sảng hiếu khách ấy đang phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm sống, làm thiệt mà cũng chưa chắc có ăn” [NTV trong CLCD BĐDS]

Trong Mekong, Dòng Sông Nghẽn Mạch, NTV đã dành ra gần trăm trang cuốn sách để nói về ĐBSCL. Ngoài những phần trình bày về đại học An Giang hay bệnh viện Đa khoa Cần thơ, nhìn chung, tác giả NTV nhận ra có sự suy giảm, xuống cấp về sinh thái trong toàn bộ địa bàn ĐBSCL. Chẳng hạn, tôm cá không dư thừa nữa. Trước đây, nếu người ta đi bắt cá đánh cá thiên nhiên để nuôi sống gia đình thì nay vì lượng cá sụt giảm, người ta phải nuôi cá để Kiếm sống. Thủy sản sông Mekong nói chung đang giảm về số lượng và v cả số loài cũng giảm. Tuy nhiên, hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, nguồn thủy sản sản xuất chính là do mình nuôi, đánh bắt chỉ chiếm số ít thôi. Tình hình này không giống như hồi năm 1975, lúc mới hòa bình, lúc đó có thể nói là cá tôm rất nhiêu. Tính ra lượng cá xuất khẩu của VN thì cá nuôi chiếm phân nửa, còn phần nửa kia là cá mình bắt ở ngoài đại dương chứ phần đánh bắt trên sông không còn là đáng kể .

Phải chăng do ô nhiễm và nguồn nước thì cạn kiệt? Tác giả cho thấy dòng chảy sông Cửu Long ngày càng yếu đi, ở nhiều khúc sông, nhất là vào mùa khô, dòng chảy đo dược ở Nam Vang chỉ còn 1.600 m3/ giây thay vì 2000m3/giây như trước đây?

Đồng bằng sông Cửu Long trước chỉ phải nuôi 13 triệu cư dân, sau 1975 dân số nay lên đến hơn 18 triệu. Cá bắt không đủ mà cá nuôi cũng không cung ứng xuể. Chẳng những thế, nay cá tôm còn được tập trung để xuất cảng sang Nhật, Mỹ và cả Âu Châu nữa. Rồi những vùng nuôi cá bằng bè như ở Châu Đốc thì nơi khúc sông đó hoàn toàn bị ô nhiễm, cá chết, bè cá bất khiển dụng. Đi thuyền trên những khúc sông này, mùi uế khí, không thể không ngửi thấy.

Tương lai của những bè cá này thật bất ổn về nhiều mặt bao lâu chưa tìm cách xử lý các chất thải và tình trạng ô nhiễm các dòng sông là điều không tránh được.

MEKONG-CỬU LONG 2011 NHÌN XA NỬA THẾ KỶ TỚI

DN NHP:

Vy mà đã 54 năm k t ngày Liên Hip Quc khai sinh y Ban Sông Mekong [1957] và cũng đã 16 năm k t ngày thành lp y Hi Sông Mekong[1995]. Trung Quc đã và đang tiếp tc xây nhng con đp thy đin khng l chn ngang dòng chính thượng ngun sông Mekong, Thái Lan có kế hoch chuyn dòng ly nước t sông Mekong, và nay li có thêm d án 12 con đp h lưu.

Đến nay 2011, Trung Quc đã hoàn tt 4 trong s 14 d án đp Vân Nam. Con đp th 5 Na Trác Đ / Nuozhado ln nht cũng đang được tiến hành xây ct cùng với con đập thứ 6 Công Quả Kiều / Gongguoqio. Sau con đp Tiểu Loan, ch trong vòng 2 năm na, , khi con đp Na Trác Đ khổng l hoàn tt, có th nói v tng th Trung Quc đã hoàn tt kế hoch chui đp bc thm Vân Nam và làm ch dòng sông Mekong.

Không có dấu hiệu các dự án xây đập thủy điện trên suốt dọc chiều dài sông Mekong sẽ chậm lại. Tuy chỉ với 4 con đập Vân Nam, các quốc gia hạ nguồn đã bắt đầu chịu những hậu quả “nhãn tiền”: những cơn lũ bất thường trong Mùa Mưa, nhiều khúc sông cạn dòng trong Mùa Khô và nạn nhiễm mặn trầm trọng hơn nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long. Ngót 70 triệu cư dân trong Lưu vực Sông Mekong và gần 20 triệu dân vùng ĐBSCL đang và sẽ phải làm gì để thích nghi và sống còn?

Ủy Hội Sông Mekong / MRC đã chứng tỏ vô hiệu và không có một nghiên cứu cụ thể nào về các biến đổi hạ nguồn do tác động từ các con đập Vân Nam. Các quốc gia Mekong không thể trông chờ các hoạt động thiếu hiệu quả của MRC lâu hơn nữa, mà phải tự cứu mình làm các nghiên cứu này, đi tìm những giải pháp và công bố trên các diễn đàn quốc tế.

Và đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh Thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ Chức Lancang-Mekong mở rộng với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc.

Đó là nội dung của 2 bài viết ngắn: một của nhà văn Ngô Thế Vinh, tác giả cuốn Mekong Dòng Sông Nghẽn Mạch, một của kỹ sư Phạm Phan Long, thành viên sáng lập Hội Sinh Thái Việt http://www.vietecology.org .

* GIẤC MNG LỚN KHÔNG THÀNH

Rất sớm từ thập niên 40 thế kỷ trước, các nhà xây đập Mỹ đã quan tâm tới tiềm năng thủy điện của con sông Mekong. Năm 1957, giữa thời kỳ chiến tranh lạnh, với bảo trợ của Liên Hiệp Quốc, một Ủy Ban Sông Mekong [Mekong River Committee] được thành lập bao gồm 4 nước Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Nam Việt Nam với một văn phòng thường trực đặt tại Bangkok. Khi soạn thảo kế hoạch phát triển sông Mekong, Liên Hiệp Quốc đã chia Lưu Vực Lớn sông Mekong [GMS, Greater Mekong Subregion] thành hai tiểu lưu vực cách nhau bởi khu Tam Giác Vàng:

Lưu Vc Trên (Upper Basin) thuộc Vân Nam Trung Quốc.

Lưu Vc Dưới (Lower Basin) thuộc 4 quốc gia hạ nguồn.

Kế hoạch phát triển Lưu Vực Dưới sông Mekong của Liên Hiệp Quốc như một “Giấc Mộng Lớn” đầy tham vọng, nhằm cải thiện cuộc sống cho toàn thể cư dân sống trong vùng hạ lưu.

[ Cho dù có mt na chiu dài sông Mekong chy qua Vân Nam nhưng Trung Quc lúc đó còn là mt quc gia khép kín và ít được nhc ti.] Nhưng rồi, Chiến Tranh Việt Nam đã lan rộng ra cả ba nước Đông Dương qua hơn ba thập niên, nên kế hoạch xây các đập thủy điện lớn như Pa Mong, Sambor, Khemmerat trên dòng chính sông Mekong vùng hạ lưu, và các chương trình khai thác khác đã phải gián đoạn, khiến cho con sông Mekong còn giữ được sự nguyên vẹn thêm một thời gian nữa.

VẪN CÒN NHNG CÁNH ĐNG CHT

Chiến tranh Việt Nam chấm dứt năm 1975, nhưng vẫn còn một cuộc chiến diệt chủng diễn ra trên Xứ Chùa Tháp. Không có Cam Bốt, một Ủy Ban Mekong Lâm Thời [Mekong Interim Committee] được thành lập [1978], với hoạt động hạn chế. Cũng trong thời gian này, Thái Lan có kế hoạch chuyển dòng sông Mekong nhằm đưa một lượng nước lớn bơm tưới cho vùng đông bắc Thái khô hạn nhưng gặp sự chống đối của Việt Nam. Thái Lan đi tới phủ nhận tính cách pháp lý của Ủy Ban Sông Mekong, viện lý do là tổ chức này đã lỗi thời không còn phù hợp với những thay đổi về chánh trị, kinh tế và xã hội trong vùng. Trong điều kiện phân hóa như vậy, Ủy Ban Mekong Lâm Thời hầu như bị tê liệt.

TỪ ỦY BAN 1957 TỚI Y HI SÔNG MEKONG 1995

Bước vào thời bình, con sông Mekong đã trở thành mục tiêu khai thác của 6 quốc gia trong toàn Lưu Vực Lớn Sông Mekong [GMS, còn được gọi là Tiểu Vùng Sông Mekong Mở Rộng]. Cùng là những quốc gia ven sông nhưng mỗi nước lại có những ưu tiên phát triển khác nhau với những quyền lợi đôi khi mâu thuẫn. Do đó, phục hồi một tổ chức điều hợp liên quốc gia tương tự như Ủy Ban Sông Mekong trước đây là cần thiết.Ngày 05 tháng 04 năm 1995, chỉ có 4 nước hội viên gốc thuộc Lưu Vực Dưới của Ủy Ban Sông Mekong đã họp tại Chiang Rai, bắc Thái, để cùng ký kết một “Hip Ước Hp Tác Phát Trin Bn Vng H Lưu Sông Mekong” và đổi sang một tên mới là Ủy Hội Sông Mekong [Mekong River Commission] với một thay đổi cơ bản trong Hiệp Ước mới này – thay vì như trước đây, mỗi hội viên trong Ủy Ban Sông Mekong có quyền phủ quyết bất cứ một dự án nào bị coi là có ảnh hưởng tác hại tới dòng chính sông Mekong – thì nay, theo nội quy mới không một một quốc gia nào có quyền như vậy.

Ủy Hội Sông Mekong gồm 3 cơ cấu: [1] Hội Đồng Đại Diện [cấp bộ trưởng], [2] Ủy Ban Hỗn Hợp, [3] Văn Phòng Thường Trực. Nay có văn phòng đặt tại Vạn Tượng. Khác với tham vọng chiến lược ban đầu của Ủy Ban Sông Mekong, mục tiêu của Ủy Hội Sông Mekong có phần khiêm tốn và thu hẹp hơn bao gồm (3):

  • Ba Chương Trình Nòng Cốt [core programmes]: (a) Chương Trình Sử Dụng Nước, (b) Chương Trình Phát Triển Lưu Vực, (c) Chương Trình Môi Trường.
  • Năm Chương Trình Khu Vực [5 sector]: 1/ Canh Nông, 2/ Thủy Lâm, 3/ Ngư nghiệp, 4/ Giao Thông và 5/ Du lịch.
  • Một Chương Trình Yểm Trợ [Capacity Building Programme]

Ủy Hội Sông Mekong được bảo trợ bởi các tổ chức quốc tế, hội tư nhân, các viện nghiên cứu và tổ chức quốc gia. Sau 16 năm hoạt động [1995-2011], Ủy Hội chỉ đạt được vài thành quả rất khiêm tốn như đi tới thỏa thuận chia xẻ thông tin giữa 4 nước thành viên, thiết lập đưa vào sử dụng “mạng lưới internet” tiên đoán lũ lụt và theo dõi dòng chảy Mùa Khô; và ký kết được một thỏa ước [tháng 4, 2002] nhằm trao đổi rất hạn chế các dữ kiện thủy văn với Trung Quốc v.v. Nhìn chung, thì hiệu năng và uy tín của Ủy Hội đã không được đánh giá cao bởi chính các cơ quan bảo trợ và cũng là một thất vọng cho các tổ chức hoạt động môi sinh.

LƯU VỰC TRÊN – LANCANG NGHN MCH

Lancang Jiang / sông Lan Thương, tên Trung Quốc của con sông Mekong thuộc Lưu Vực Trên [Upper Basin]. Chiến lược ngăn sông Lan Thương để xây 14 con đập bậc thềm Vân Nam của Bắc Kinh đã có từ thập niên 70. Trong hơn ba thập niên, Trung Quốc đã ào ạt khai thác con sông Lan Thương, bằng cách xây các đập thủy điện khổng lồ chắn ngang dòng chính.

Tuy chỉ mới có 4 con đập hoàn tất [Mạn Loan / Manwan 1,500 MW, Đại Chiếu Sơn / Dachaoshan 1350 MW, Cảnh Hồng / Jinhong1,350 MW, Tiểu Loan / Xiaowan 4,200 MW] trong dự án Mười Bốn Con Đập Vân Nam, vậy mà chưa bao giờ trong Mùa Khô, mực nước con sông Mekong lại có thể xuống thấp đến như vậy. [Hình 1]Ở một số nơi, có những khúc sông hầu như cạn dòng và trơ đáy. Nguồn cá và nông nghiệp đã trực tiếp bị ảnh hưởng. Không chỉ đơn giản vì “thiếu mưa”, sự kiện sông Mekong cạn dòng năm 1993 mà không vào Mùa Khô, trùng hợp với thời điểm Trung Quốc bắt đầu lấy nước vào con đập thủy điện Mạn Loan ngang dòng chính sông Mekong. Để có đủ nước cho 4 đập thủy điện đang hoạt động, Trung Quốc đã thường xuyên đóng các cửa đập khiến mực nước sông đã xuống tới mức thấp nhất. Bắc Kinh đã không cung cấp thông tin về chu kỳ vận hành của các con đập ấy để các quốc gia hạ lưu có thể kịp thời ứng xử và đối phó.

Odd Bootha 38 tuổi, anh lái đò bến Chiang Khong Bắc Thái đã phải than thở: “Nếu Trung Quốc cứ xây thêm đập thì sông Mekong chỉ còn là một con lạch.”

Chainarong Sretthachau, giám đốc Mạng Lưới Sông Đông Nam Á [Southeast Asia Rivers Network] cho rằng “Trung Quốc đã có quyền lực để kiểm soát dòng sông Mekong.” (2)Do nhu cầu điện của Trung Quốc tăng 5-6% /năm, để đáp ứng tốc độ phát triển kinh tế, với khát vọng vô hạn về năng lượng, không có dấu hiệu nào Trung Quốc sẽ dừng bước hay chậm lại kế hoạch khai thác nguồn thủy điện phong phú của con sông Mekong.

Nhận định về các kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc, Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt Đới Smithsonian [Mỹ] đã phát biểu: “Xây các đập thủy điện, khai thông thủy lộ, với tàu bè thương mại quá tải sẽ giết chết dòng sông… Các bước khai thác của Trung Quốc sẽ làm suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang chết dần.” (3)Với Cam Bốt, trái tim Biển Hồ chỉ còn đập khi con sông Tonle Sap còn duy trì được dòng chảy hai chiều theo mùa. Trong Mùa Mưa, sông Mekong phải đủ nước chảy ngược vào Biển Hồ, như một “điều kiện sống còn” cho nguồn cá và vựa lúa của người dân xứ Chùa Tháp. Nhưng chưa hề có bảo đảm nào cho một tương lai như vậy.

Năm 2005, trước khi bay sang dự Hội Nghị Thượng Đỉnh Côn Minh, Thủ tướng Hun Sen đã công khai lên tiếng ủng hộ Bắc Kinh, đối với kế hoạch khai thác sông Mekong, cho dù điều ấy đi ngược lại ý kiến quan ngại gần như báo động của các chuyên gia bảo vệ môi sinh. [AFP, 6/29/2005]

Và chỉ mới đây thôi, tháng 11, 2010, sau Hội Nghị Thượng Đỉnh ACMECS ở Nam Vang, ông Hun Sen lại một lần nữa, đã bác bỏ mọi mối quan ngại về ảnh hưởng của các đập thủy điện trên thượng nguồn đối với dòng chảy sông Mekong. Ông khẳng định chu kỳ lũ lụt hay hạn hán mới đây là hậu quả của thay đổi khí hậu / climate change và khí thải carbon / carbon emissions chứ chẳng liên hệ gì tới chuỗi những con đập thủy điện của Trung Quốc. [The Phnom Penh Post, Nov 17, 2010]

Trong khi chính một học giả uy tín Trung Quốc, giáo sư Tần Huy / Qin Hui thuộc Đại học danh tiếng Thanh Hoa / Tsinghua Bắc Kinh cũng đã phải lên tiếng chỉ trích các ứng xử thiếu trong sáng của Bắc Kinh về các con đập Vân Nam: “Bảo rằng chỉ có 14% lưu lượng nước từ Trung Quốc đổ ra Biển Đông, nhưng với con đập thứ tư Tiểu Loan đã có tới 70% dung tích các hồ chứa nằm trong lãnh thổ TQ – và dung tích ấy sẽ tăng tới 90% khi con đập thứ năm Nọa Trác Độ hoàn tất. Và điều kỳ là là các giới chức TQ lại chỉ có nhắc tới 3 hồ chứa nhỏ trên sông Mekong.” (9)

Cho dù một đất nước Tây Tạng đang khắc khoải và không có tự do, nhưng Đức Đạt Lai Lạt Ma với tầm nhìn rất xa, đã chọn ưu tiên bảo vệ môi sinh Cao Nguyên Tây Tạng trước cả chánh trị. (8) Tây Tạng vẫn được coi như Cực Thứ Ba / Third Pole của toàn cầu, nơi phát sinh những con sông lớn của Châu Á.

CON ĐẬP MẸ TIỂU LOAN

Con đập vĩ đại Tiểu Loan/ Xiaowan chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp/ Three Gorges Dam lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. (1)

Đây là đập thủy điện thứ tư nhưng là một trong hai con đập lớn nhất trong chuỗi 14 con đập bậc thềm Vân Nam [Mekong Cascades] của Trung Quốc trên dòng chính sông Mekong.

Đập Tiểu Loan có 4 đơn vị phát điện với công suất lên tới 4,200 MW [gần bằng tổng số công suất cả ba con đập Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn và Cảnh Hồng]. [Hình 1]

Tiểu Loan đã là một trong hai con khủng long trên trên thượng nguồn sông Mekong, là con “đập cao nhất thế giới” 292 mét bằng chiều cao của tháp Eiffel. Hồ chứa đập Tiểu Loan như “Con Đập Mẹ / Mother Dam” có chiều dài tới 169 km, diện tích mặt hồ rộng tới 190 km2, dung lượng lên tới 15 tỉ m3 nước lấy từ con sông Mekong. Tổn phí để xây đập Tiểu Loan lên tới trên 4 tỉ $US. Đập Tiểu Loan đã bắt đầu hoạt động từ năm 2010. Tiểu Loan nằm trong chiến lược sản xuất điện của Trung Quốc, hiện nay đã dư dùng cho thủ phủ Côn Minh và các khu kỹ nghệ Vân Nam và nay đã có thể chuyển điện sang các tỉnh cận duyên miền Đông, nối xa tới Thượng Hải.

THÊM CON ĐẬP KHỔNG LỒ LỚN NHẤT NỌA TRÁC ĐỘ

Khủng khiếp hơn cả “Con Đập Mẹ” Tiểu Loan, con đập Nọa Trắc Độ / Nuozhadu được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24,000 cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trác Độ, có chiều dài 226 km, dung lượng hồ chứa lên tới 22 tỉ m3, [Tiểu Loan 15 tỉ m3]; 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện dự trù hoàn tất vào năm 2014, với tổng công xuất lên tới 5,850 MW, tương đương với hơn 5 lò máy hạt nhân lớn / 5 large nuclear reactors. [Chinese dam projects raise alarm in Asia_ theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]

Nọa Trác Độ tuy không cao [261.5 m] như đập Tiểu Loan [293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong. Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trác Độ hoàn tất, sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc. [Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009]

Theo Hirsch, giám đốc trung tâm nghiên cứu sông Mekong thuộc Đại học Sydney thì: “Hai con đập khổng lồ Tiểu Loan và Nọa Trác Độ sẽ ảnh hưởng trên suốt dòng chảy của con sông Mekong xuống tới tận ĐBSCL của Việt Nam.”

NHỮNG TN THT KHÁC TỪ PHƯƠNG BẮC Không chỉ ngăn sông xây đập, chuyển dòng lấy nước, nhưng ai cũng biết là Lưu Vực Trên Sông là vùng động đất. Vào năm 1990, một trận động đất M6 đã xảy ra gần nơi xây đập Tiểu Loan.

Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật Bản, từng làm việc cho Liên Hiệp Quốc trong Ủy Ban Sông Mekong, là tác giả cuốn sách The Mekong: Environment and Development [United Nations University Press, Tokyo 2000], đã nhận định: “Lưu Vc Trên ca sông Mekong là vùng đng đt, vi nhng chuyn đng đa chn đáng k khiến người ta có lý do đ s rng đng đt s xy ra khi xây nhng con đp.” (6) Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này. (10)

Thêm nữa, để cho những con tàu trọng tải từ 500 tới 700 tấn chở đầy hàng hóa của Trung Quốc có thể di chuyển từ giang cảng Tư Mao / Simao Vân Nam xuống tới Chiang Khong, Chiang Sean Thái Lan và xa hơn nữa tới tận Luang Prabang và Vạn Tượng của Lào, và trên đường về sẽ chở những khoáng sản và nguyên liệu đáp ứng nhu cầu phát triển kỹ nghệ của Trung Quốc. Đã có một kế hoạch có tên là “D Án Ci Thin Thy L Thượng Ngun Sông Mekong / Navigation Channel Improvement Project on the Upper Mekong River” được ký kết vào tháng 04 năm 2001 giữa 4 nước Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan và Lào (không có Cam Bốt và Việt Nam).

Đó là kế hoạch dùng chất nổ / dynamite phá đá trên 21 đoạn ghềnh thác để mở rộng lòng sông Mekong từ Vân Nam xuống tới Lào. Hàng trăm ngàn tấn đá bị chất nổ phá vỡ, được các đoàn tàu vét [backhoe] dồn xuống những hố sâu dưới lòng sông – vốn là nơi trú ẩn có tầm quan trọng “sống còn” đối với vô số loài cá và cũng là nơi lưới cá của cư dân địa phương trong mùa khô.

Dự án phá ghềnh thác ngay bước đầu đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng trên sự cân bằng thủy học, khiến dòng nước chảy nhanh và siết hơn, gây sụp lở bờ sông cùng phá hủy các loại hoa màu trồng ven sông, gây tác hại tức thời trên sinh cảnh và đời sống cư dân các nước Miến Điện, Thái Lan và Lào, chưa kể tới ảnh hưởng dây chuyền trên đời sống cư dân hai nước ở xa dưới nguồn là Cam Bốt và Việt Nam.

LƯU VỰC DƯỚI – THÁI LAN CHUYN DÒNG

Rất sớm từ đầu thập niên 90, Thái Lan đã có hai kế hoạch táo bạo nhằm chuyển dòng lấy nước từ con Sông Mẹ / Mae Nam Khong [tên Lào Thái của con sông Mekong] ._ Dự án KONG-CHI-MUN:Từ 1992, Thái đã có một kế hoạch dẫn thủy lớn lao với tổn phí lên tới 4 tỉ Mỹ kim nhằm lấy nguồn nước từ khúc sông Mekong gần Nong Khai để chuyển về các con đập trên hai con sông Chi và sông Mun qua một hệ thống ống dẫn / aqueduct khổng lồ dài 200 km. Nước sông Mekong sẽ được dùng cho việc “cứu hạn” những cánh đồng lúa nằm trong lưu vực hai con sông này.(6)Dự án KCM, hiển nhiên đe dọa nghiêm trọng trên dòng chảy sông Mekong, nên Việt Nam đã lên tiếng phản kháng. Lào cũng bày tỏ mối quan ngại, vì kế hoạch chuyển nước sẽ khiến con sông cạn dòng gây trở ngại giao thông. Bộ trưởng Môi sinh Cam Bốt, tiến sĩ Mak Moreth đã báo động về hậu quả nghiêm trọng do dự án chuyển nước của Thái Lan càng làm suy giảm dòng chảy sông Mekong nơi hạ nguồn. (6)

_ Dự án KOK-ING-NAN: Chỉ hai năm sau, từ 1994, Thái Lan có thêm một kế hoạch lớn thứ hai: Dự án Kok-Ing-Nan, lấy nước từ hai phụ lưu lớn của sông Mekong là sông Kok và sông Ing vùng Chiang Rai bắc Thái. (7) Đây là một dự án táo bạo, tổn phí lên tới 1.5 tỉ Mỹ kim, nhằm chuyển nước từ hai phụ lưu cho chảy qua những đường hầm / tunnels khổng lồ dài hơn 100 km vào con sông Nan [sông Nan là một phụ lưu của sông Chao Phraya]. Lượng nước từ hai con sông Kok và sông Ing còn được tiếp cho con đập lớn Sirikit, quanh năm thiếu nước. Nước từ hồ chứa Sirikit không chỉ hoạt động phát điện mà còn cung cấp nước tưới cho những cánh đồng bao la vùng châu thổ Sông Chao Phraya đang bị khô hạn, và cả cung ứng nước cho các khu kỹ nghệ và 10 triệu cư dân sống ở thủ đô Bangkok.

Nhưng cho dù ba nước lân bang có lên tiếng phản đối, thì Thái Lan cũng vẫn từng bước thực hiện kế hoạch của mình.

LƯU VỰC DƯỚI – THÊM 12 CON ĐẬP MEKONG

Các dự án đập thủy điện chắn ngang sông Mekong vùng Hạ lưu đã có từ thời Ủy Ban Sông Mekong. Cũng vị trí những con đập ấy đã được các cơ quan tham vấn Canada và Pháp tái đề xuất và Ban Thư Ký Sông Mekong ấn hành năm 1994. Nhưng rồi các dự án ấy bị tạm gác lại vì quá tốn kém và cả do mối e ngại về tác hại rộng rãi trên môi sinh.

Kể từ đầu năm 2006, các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc, được phép tiếp tục thực hiện những cuộc khảo sát về tính khả thi của 6 con đập sau đó tăng lên tới 11 rồi 12 con “đập dòng chảy / run-of-river” thuộc Lưu Vực Dưới; thứ tự 11 dự án đập từ bắc xuống nam:

1/ Đập Pak Beng, Lào 1,320 MW; bảo trợ dự án: công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co. và chánh phủ Lào.

2/ Đập Luang Prabang, Lào 1,410 MW; bảo trợ bởi Petrovietnam Power Co. và chánh phủ Lào.

3/ Đập Xayabouri, Lào, 1.260 MW, tỉnh Xayabouri, Lào; bảo trợ bởi công ty Thái Lan Karnchang và chánh phủ Lào.

4/ Đập Pak Lay, Lào, 1,320 MW tỉnh Xayaburi; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Sinohydro Co. tháng 6, 2007 để khảo sát của dự án.

5/ Đập Xanakham, Lào, 1,000MW; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc” Datang International Power Generation Co.

6/ Đập Pak Chom, biên giới Lào Thái, 1,079 MW

7/ Đập Ban Koum, biên giới Lào Thái, 2,230 MW, tỉnh Ubon Ratchathani; bảo trợ bởi Italian-Thai Development Co., Ltd và Asia Corp Holdings Ltd. và chánh phủ Lào.

8/ Đập Lat Sua, Lào, 800 MW; bảo trợ bởi Charoen Energy and Water Asia Co. Ltd. /Thái Lan và chánh phủ Lào.

9/ Đập Don Sahong 360 MW, tỉnh Champasak, Lào: được bảo trợ bởi công ty Mã Lai Mega First Berhad Co.

10/ Đập Stung Treng, Cam Bốt, 980 MW; bảo trợ bởi chánh phủ Nga

11/ Đập Sambor, Cam Bốt; bảo trợ bởi công ty “Trung Quốc”/ China Southern Power Grid Co./ CSGP.

Bắc Kinh đã sở hữu 14 con đập bậc thềm Vân Nam thuộc Lưu Vực Trên, nay lại có mặt thêm nơi trong 4 dự án thuộc khu vực Hạ Lưu. Riêng Việt Nam do chỉ thấy lợi lộc ngắn hạn, cũng bảo trợ cho dự án đập Luang Prabang 1,410 MW. Với chọn lựa theo “tiêu chuẩn nước đôi ấy / double standard”, Hà Nội sẽ chẳng thể còn kêu ca được gì trước Liên Hiệp Quốc khi nói về tác hại của chuỗi đập Mekong đối với Việt Nam.

ỦY HỘI SÔNG MEKONG THIẾU TRÁCH NHIỆM

Do những lượng giá ảnh hưởng về xã hội và môi sinh của từng con đập không được công khai hóa, đã có nhiều tổ chức hoạt động môi sinh lên tiếng, nêu rõ những tác hại nghiêm trọng và lâu dài trên hàng triệu cư dân sống bằng nguồn nước, nguồn cá của dòng sông Mekong.

Với nhận định MRC đã rất thụ động trước sự tái phục hoạt của các dự án đập thủy điện Hạ Lưu. Không những thế MRC đã không có thông báo gì cho cư dân ven sông mối hiểm nguy của những con đập ấy, và cả tránh phổ biến những tin tức bất lợi của các dự án đập. Người ta tự hỏi về tương lai và vai trò tổ chức này có còn hũu ích gì không trong tiến trình bảo vệ dòng Sông Mekong?

Các nhà hoạt động môi sinh kêu gọi tinh thần trách của tổ chức liên chánh phủ này. “Ủy Hội cần chứng tỏ là một tổ chức hữu ích cho quần chúng, chứ không phải là cho các nhà đầu tư,” Surichai Wankaew, giám đốc Viện Nghiên cứu Xã hội Đại học Chulalongkorn, Thái Lan nói tiếp “Nhiệm vụ Ủy Hội thay đổi, thay vì ‘tạo thuận/ facilitation’ cho việc xây đập, thì nay phải là ‘diễn đàn / platform’ cho cư dân bị ảnh hưởng nói lên mối quan tâm của họ”. Cũng trước đó, đã có hơn 200 tổ chức môi sinh từ 30 quốc gia yêu cầu Ủy Hội và các nhà tài trợ ngưng ngay các dự án xây đập.

Một kháng thư gửi Ủy Hội Sông Mekong và các Cơ quan Tài trợ nhân cuộc họp tại Siem Reap vào ngày 15/11/2007: “Chúng tôi, những nhóm công dân viết lá thư này để bày tỏ mối quan tâm về sự tái phục hoạt các chương trình xây đập trong vùng Hạ lưu sông Mekong, cùng với sự bất lực của Ủy Hội thực hiện Thỏa ước Mekong 1995 trong tình hình nghiêm trọng hiện nay.

Lẽ ra Ủy Hội có thể lên tiếng khuyến cáo ngăn chặn các dự án xây đập của các quốc gia ven sông nhưng họ thì vẫn cứ im lặng một cách đáng ngạc nhiên. Những cuộc khảo sát của các công ty Thái Lan, Mã Lai và Trung Quốc bao giờ cũng nói tới những lợi lộc của các con đập nhưng lại rất ít quan tâm tới ảnh hưởng lâu dài trên sinh cảnh môi trường và trước mắt là hàng bao nhiêu chục ngàn cư dân ven sông sẽ phải di dời tới một nơi và một tương lai vô định.

Mekong là một con Sông Quốc Tế, với nguồn tài nguyên mà tất cả các quốc gia ven sông đều có quyền cùng chia xẻ chứ không chỉ để phục vụ cho các nhóm tài phiệt hay một quốc gia riêng lẻ nào.

Trong cuộc họp tại Siem Reap tháng 11/2007 với tham dự của MRC và các nhà tài trợ bao gồm: Ngân hàng Thế giới /WB, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu/ ADB, và các quốc gia như Úc, Phần Lan, Pháp, Đức, Hòa Lan, Thụy Sĩ và Mỹ. Các nhà tài trợ đã khuyến cáo MRC với ngôn từ mạnh mẽ về: (a) sự cần thiết phải kiện toàn cơ cấu MRC, (b) và cũng đặc biệt quan tâm tới sự thiếu đáp ứng và thiếu khả năng lãnh đạo của MRC đối với những chương trình phát triển trong đó có lãnh vực khai thác khai thác thủy điện…

Chúng tôi cũng đặc biệt quan tâm tới thiếu sót là đã không tham khảo quần chúng và các tư nhân đầu tư; cũng như sự thiếu quan tâm tới ảnh hưởng tích lũy của những con đập trên ngư nghiệp và sự an toàn về lương thực trong vùng. Chúng tôi yêu cầu MRC cung cấp thông tin về những phương cách thông báo/ notification, trước giai đoạn tham khảo để đi tới thỏa ước”.

Rõ ràng là sự phê phán từ phía các tổ chức bảo về môi sinh chủ yếu là từ Thái Lan và Cam Bốt [rất tiếc là đã không có Việt Nam], đã khiến các “Cơ Quan Tài Trợ Xây Đập” đầy thế lực như ADB/ Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, WB/ Ngân Hàng Thế giới phải trùn bước và cả lắng nghe.

MỘT TIẾN TRÌNH KHÔNG THỂ ĐẢO NGHỊCH

Xây đập hay không xây đập, câu trả lời đó chỉ là vấn đề thời gian? Rồi ra các nước đang phát triển cũng trở thành những xã hội tiêu thụ, do sự cần thiết đáp ứng nhu cầu về năng lượng điện cho phát triển, có thể dự đoán với xác xuất cao, là chuỗi 12 con đập Lưu Vực Dưới sông Mekong sớm hay muộn, mau hay chậm cũng sẽ được tiến hành và hoàn tất trong vòng nửa đầu của thế kỷ 21. Riêng Lưu Vực Trên, nhưng sớm hơn Trung Quốc sẽ hoàn tất 14 con đập Vân Nam.

Tổng số dự trù sẽ là 24 con đập trên suốt dòng chính sông Mekong. Đó là một tiến trình khó mà đảo nghịch. Cốt lõi của vấn đề là làm sao khai thác thủy điện sông Mekong một cách bền vững / sustainable hydropower development, với những điều kiện khả dĩ tối ưu trong khi hoàn cảnh và nhu cầu mỗi quốc gia trong Lưu Vực thì rất khác.

Ví dụ, chỉ riêng nơi Lưu Vực Dưới, nước Lào cần tận dụng khai thác nguồn thủy điện để xuất cảng lấy về nguồn ngoại tệ nhằm thoát ra cảnh nghèo khó. Xayaburi có thể con đập dòng chính đầu tiên của Lào cho dù được Tổ chức Lượng giá Môi sinh Chiến lược / SEA / Strategic Environment Assessment khuyến cáo là nên hoãn lại mười năm nữa để có thêm thời gian khảo sát. Thái Lan thì luôn luôn cần thêm điện nhưng phải đối đầu với các tổ chức môi sinh và xã hội dân sự rất mạnh nên sẽ chậm hơn. Cam Bốt với chính quyền Hun Sen, bất chấp hậu quả môi sinh, nên sẽ không có một cản trở nào để tiến tới 2 con đập dòng chính Sambor và Stung Treng.

Đồng Bằng Sông Cửu Long với Sông Tiền Sông Hậu tuy không có tiềm năng thủy điện, nhưng Việt Nam cũng đã tận khai thác các phụ lưu lớn sông Mekong như đập Yali [Gia Lai-Kontum] trên sông Se San, và mới đây là con đập Se San 2, Stung Treng trên lãnh thổ Cam Bốt. [VNEconomyNews.com]

NHÌN XA HƠN NỬA THẾ KỶ TỚI

Đã qua thập niên đầu của thế kỷ 21, với kỹ thuật cao, với lòng tham của con người, chẳng khó khăn gì để giết chết một dòng sông, hủy diệt cả một hệ sinh thái phong phú nhưng cũng rất ư là mong manh của hành tinh này.

Liệu ai sẽ thực sự trách nhiệm “duy trì dòng chảy tối thiểu” của con sông Mekong trong mùa khô để nước mặn từ ngoài Biển Đông không tiếp tục lấn vào sâu và xa hơn nữa vào ĐBSCL? Cũng như làm sao để có dòng chảy đủ mạnh trong mùa lũ để có nước chảy ngược từ con sông Tonle Sap vào Biển Hồ, để duy trì nhịp đập trái tim của Cam Bốt. Và cho đến nay, không ai có thể đưa ra một lời giải đáp. Một câu hỏi lớn về chức năng của Ủy Hội Sông Mekong, phải chăng đó chỉ là một tổ chức hữu danh vô thực? Bởi vì Ủy Hội chưa hề là một think tank / một trung tâm trí tuệ, chưa hề một tổ chức uy tín có tầm vóc để được coi là đủ sức đối trọng với các tập đoàn tư bản xây đập quốc tế và nhất là với nước lớn Trung Quốc.

Khởi đầu, từ Ủy Ban tới Ủy Hội Sông Mekong, trước sau vẫn là hai tổ chức hình thành bởi 4 nước thuộc Lưu Vực Dưới Sông Mekong. Nay với các kế hoạch khai thác vĩ mô lan rộng suốt chiều dài sông Mekong trên cả hai Lưu Vực, thì những điều lệ và tầm vóc của Ủy Hội đã không còn phù hợp tình hình hiện tại. Rõ ràng không thể “dùng thúng úp voi”: con voi ấy là Trung Quốc và cái thúng là tầm vóc của Ủy Hội Sông Mekong hiện nay.

Do đó đang có manh nha một sáng kiến từ Hội Sinh Thái Việt: tiến tới vận động hình thành một Tổ Chức Lancang-Mekong mở rộng: LMRC / Lancang-Mekong River Commission với 6 quốc gia bao gồm cả Myanmar và Trung Quốc với những điều lệ mới trong “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung có thể chấp nhận được bởi mọi phía. Bởi vì một Tổ chức Sông Mekong cho dù với danh xưng nào đi nữa mà không bao gồm nửa chiều dài khúc sông Lancang-Mekong thượng nguồn, không có sự tham dự của Trung Quốc như một thành viên chính thức, tổ chức ấy sẽ hoàn toàn vô nghĩa.

Nếu không có một bước ngoặt, một nỗ lực cứu nguy cấp thời, thì trong một tương lai không xa, con Sông Mekong-Cửu Long, sẽ chỉ còn là một dòng sông chết, chỉ để sản xuất thủy điện, dùng làm thủy lộ giao thông và tệ hại hơn nữa còn là cống rãnh để đổ xuống các chất phế thải kỹ nghệ từ tỉnh Vân Nam Trung Quốc xuống tới các quốc gia hạ nguồn.

ĐỒNG THÁP MƯỜI, ĐỒNG CÀ MAU VÀ MỘT XA LỘ BIỂN ĐÔNG

Đã qua rồi từ cuối thế kỷ trước, một thời kỳ “làm chơi ăn thiệt” nơi Đồng Bằng Sông Cửu Long do được thiên nhiên ưu đãi. Nếu biết rằng, nửa sau của thế kỷ 21 này, sẽ không còn một vựa lúa cho cả nước, Sông Tiền Sông Hậu sẽ là hai con sông chết vì thiếu nguồn nước ngọt do những con đập thượng nguồn nhưng lại dư độ mặn do Biển Đông dâng cao, với hậu quả là sẽ không còn một Nền Văn Minh Miệt Vườn.

Trước kịch bản ấy, câu hỏi đặt ra là, làm gì? Câu trả lời chắc chắn đòi hỏi rất nhiều trí tuệ của một dân tộc, khởi đi từ những ý tưởng mới, từ đó mở ra những cuộc tranh luận.

Học được gì từ Hòa Lan Vùng Đất Thấp từ mấy thế kỷ trước với một hệ thống đê đập nhân tạo và thủy lợi nhằm giữ đất và ngăn mặn từ Bắc Hải, cộng thêm với hiệu quả ngăn lũ lụt, tạo thêm đất canh tác. Hiệp hội Kỹ sư Công chánh Mỹ / American Society of Civil Engineers đã vinh danh các công trình của Hòa Lan như một trong Bảy Kỳ quan của Thế giới.

Học được gì từ Con Đê Biển Saemageum dài nhất thế giới mới đây của Hàn Quốc. Là một bức trường thành dọc theo bờ biển đông tiếp giáp với Hoàng Hải, chắn ngang hai cửa sông Dongjin và Manggyeong. Dự án được khởi công từ 1991 và hoàn tất 2010, như một kỳ công về xây dựng được coi như một trong những kỳ tích tạo một vùng đất mới / land reclamation lớn nhất, lớn hơn cả công trình Zuiderzee của Hòa Lan.

Điều trước tiên học được từ của hai dân tộc một Âu một Á ấy, đó là sự hình thành một “ý tưởng lớn” cùng với ý chí và quyết tâm thực hiện, trong những nghịch cảnh và vị trí địa dư rất khác biệt.

Trong hai bài tới, như một gợi ý, người viết sẽ bàn tới tiềm năng sống còn của Đồng Bằng Sông Cửu Long với hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau như hai hồ chứa nước ngọt lớn (11); và kế hoạch xây dựng một con đê biển chiến lược ngăn mặn như một Xa Lộ Biển Đông. Sẽ không có cái giá để mặc cả và thời gian thì có thể hơn giới hạn một đời người, để bảo vệ vùng đất định mệnh nhưng là một linh địa của dân tộc Việt.

NGÔ THẾ VINH

California, 11-01-2011

[Source: http//www.vietecology.org]

Tham kho:

1/ Progress In Water Management at the Mekong River Ba­sin, MRC Presentation at Third WWF, INBO Official Session, Mar 20, 2004

2/ Mekong River At Risk, Barry Wain, FEER, Aug 26, 2004

3/ Chinese Dam Project may spell disaster for mighty Mekong river, Denis Gray, Nov 2, 2002, (AP)

4/ Hunsen backed China’s often-criticized development plans for the Mekong river Phnom Penh, Jun 29, 2005, (AFP)

5/ Chinese Premier Wen Jiabao opened the Second Greater Mekong Subregion Summit, Beijing, Jul 4, 2005, (AFP)

6/ The Mekong, Environment and Development, Hiroshi Hori, United nations, University Press, Tokyo 2000

7/ Kok-Ing-Nan Water Diversion Project, Mekong Watch: Japanese ODA to Thailand,FY 2001

8/ Dalai Lama says prioritise climate change over politics in Tibet; Guardian.co.uk_ The US Embassy cables 10 August 2009

9/ On the Mekong, a better way. Qin Hui, Economic Observer. Where China and the World Discuss the Environment. December 25, 2010.

10/ Chinese environmentalists and scholars appeal for dam safety assessments in geologically unstable south-west China,, https://probeinternational.org/referenced/chinese-environmentalists-and-scholars-appeal-dam-safety-assessments-geologically-unstabl.

11/ Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười. Trần Ngươn Phiêu, Thế Kỷ 21 số 219, July 2007

NGÔ THẾ VINH

Đê biển mới được xây dựng tại Trà Vinh. (Ảnh: SGGP)

ThienNhien.Net – Biến đổi khí hậu đã tác động ngày càng rõ nét ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), trong đó đáng lo ngại là hiện tượng nước biển dâng, mặn xâm nhập sâu. Nhiều địa phương đã chủ động triển khai các giải pháp phù hợp, vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Đẩy mạnh trồng rừng phòng hộ

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, do mực nước sông và mực nước nội đồng vào mùa lũ năm nay ở ĐBSCL xuống thấp nhất trong vòng 30 năm qua nên nước biển ngày càng dâng cao. Hiện tượng xâm nhập mặn ngày càng tiến sâu vào đất liền trên các tuyến biển Đông và biển Tây Nam, bị ảnh hưởng nặng nề nhất là các tỉnh Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng…

Trước thực trạng trên, các Bộ, ngành chuyên môn cũng như các tỉnh ven biển đang tích cực triển khai Quyết định 667/QĐ-TTg năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về củng cố, nâng cấp đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện An Minh (Kiên Giang), ông Võ Hoàng Việt cho biết, các huyện An Biên, An Minh, U Minh Thượng rất mong công trình đê biển quốc gia Kiên Giang – Quảng Ngãi đi qua địa giới của huyện sẽ sớm hoàn thành. Tuyến đê sẽ không chỉ bảo vệ vùng đất canh tác của huyện An Minh mà còn giữ hệ sinh thái ngập úng của rừng tràm quốc gia U Minh Thượng bền vững, không bị xâm nhập mặn khi nước biển dâng cao.

Tại Cà Mau, trong năm nay tỉnh đã triển khai dự án chống sạt lở đê biển Tây Nam. Hiện nay, huyện U Minh đang nhanh chóng xây hệ thống cống mới toàn tuyến và chống sự sạt lở bất thường của đê biển Tây Nam.

Bên cạnh đó, các địa phương có tuyến đê đi qua đã nhanh chóng huy động nhân dân trồng lại rừng ven biển, rừng phòng hộ. Chẳng hạn, tại cửa Trần Đề huyện Long Phú chạy dài xuống huyện Vĩnh Châu (Sóc Trăng) và cửa Nhà Mát thị xã Bạc Liêu chạy dài xuống Gành Hào, huyện Đông Hải (tỉnh Bạc Liêu)… các thảm rừng phòng hộ đã phát huy tác dụng rất lớn cho vùng đệm bảo vệ tuyến đê ven biển vững chắc hơn. Bên trong đê, nhân dân nuôi trồng và phát triển kinh tế ven biển rất trù phú…

Các khu rừng đước ngập mặn và rừng tràm ngập úng của ĐBSCL cũng đang được các địa phương xây dựng vùng rừng đệm dầy hơn để tạo vành đai rừng ven biển.

Chi cục phó Chi cục Thủy lợi tỉnh An Giang Vương Hữu Tiến cho biết, tỉnh đã duyệt 40 tỷ đồng cho 99 công trình thủy lợi nạo vét kênh mương trữ nước xây hồ trữ ngọt, xây 15 đập tạm chống xâm nhập mặn để phục vụ trên 30.000 ha của vùng Tứ giác Long Xuyên.

Trà Vinh cũng đã huy động mọi nguồn lực, tập trung nạo vét hệ thống kênh mương, khai thông dòng chảy lấy nước từ thượng nguồn đổ về; gia cố lại hệ thống bờ vùng, bờ thửa, đê bao và đắp các cống đập ngăn mặn thời vụ…

Thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

Để thích nghi với biến đổi khí hậu thất thường, hiện nay, các tỉnh ở ĐBSCL đang triển khai bố trí lại cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với sự biến đổi khí hậu mà điển hình là mô hình lúa – tôm của huyện An Minh (Kiên Giang).

Huyện An Minh quy hoạch tổng thể lại cây trồng, vật nuôi như đất trồng lúa kết hợp với nuôi tôm, đất nhiễm mặn chuyên tôm và đất canh tác hai vụ lúa. Đặc biệt là huyện đã triển khai các giống lúa có khả năng chịu mặn cao để đối phó với xâm nhập mặn ngày càng sâu.

Tuy nhiên, mô hình lúa – tôm ở ĐBSCL, nhất là các huyện ven biển như An Minh phát triển chưa nhiều, ước tính có khoảng 100.000 đến 150.000 ha kết hợp một vụ lúa, một vụ tôm, trong khi đó tiềm năng mô hình này còn khả năng nhân rộng gấp nhiều lần.

Ngoài ra, các mô hình nuôi tôm sinh thái, nuôi tôm dưới tán rừng ngập mặn ở các vùng đệm khu sinh quyển như huyện Năm Căn (Cà Mau) cũng đang được chính quyền quan tâm mở rộng.

Theo các nhà khoa học, biến đổi khí hậu làm nước biển dâng cao thì các tỉnh ven biển nên chọn tôm sú và các loài thuỷ sản sinh thái mặn làm chủ lực, còn vùng sinh thái ngập úng, nước ngọt như An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long… nên lấy cá da trơn làm chủ lực như: cá tra, cá ba sa…

Bên cạnh đó, các địa phương cũng đã quan tâm xây dựng những mô hình trồng trọt phù hợp. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Tiền Giang, toàn tỉnh định hình được những vùng sản xuất chuyên canh theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu đồng thời phòng tránh hạn mặn, lũ lụt hiệu quả như gần 800 ha ớt chuyên canh, gần 4.500 ha bắp ăn tại các huyện phía Đông. Bắp ăn trồng trên chân ruộng cho lợi nhuận mỗi vụ gần 26 triệu đồng/ ha còn ớt cho lợi nhuận kỷ lục 80 – 85 triệu đồng/ha sau mỗi vụ sản xuất.

Tại vùng ven Đồng Tháp Mười và ngập lũ phía Tây, diện tích trồng luân canh lúa hè thu + dưa hấu + lúa đông xuân đã mở rộng lên gần 3.000 ha.

Mới đây, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Trà Vinh cũng vừa tuyển chọn nhân rộng 6 giống lúa có thể gieo sạ trong điều kiện bị khô hạn và mặn xâm nhập nhưng vẫn cho năng suất khoảng 7 tấn/ha…

No comments:

Post a Comment