1. Skidmore, Owings & Merrill (SOM): Công ty thiết kế các công trình cao tầng, các công trình cao tầng sinh thái, tiết kiệm năng lượng hàng đầu. Sự năng động sáng tạo, sức mạnh tài chính đã làm nên một SOM hàng đầu thế giới.
Văn phòng Bắc Mỹ: SOM Los Angeles
555 West 5th Street
30th Floor
Los Angeles, CA 90013, USA
30th Floor
Los Angeles, CA 90013, USA
phone: 213.996.8366
fax 310.817.6346
fax 310.817.6346
som.losangeles@som.com (for business inquiries only)
KL Metropolis Master Plan
San Francisco's Proposal for the 34th America's Cup
2. Herzog &de Meuron:
Herzog & de Meuron Basel Ltd.
Rheinschanze 6
4056 Basel, Switzerland
Với công trình mang tính biểu tượng như “SVĐ Tổ Chim Bắc Kinh”, “Vườn treo Babylon” của bảo tàng nghệ thuật Miami.
SVĐ Tổ Chim Bắc Kinh
Miami Art Museum
Forum Building, Barcelona
3. Zaha Hadid: Zaha Hadid Architects10 Bowling Green Lane
London EC1R 0BQ - Anh
Với thiết kể cửa sổ pop up sexy cho Chanel, thiết kế như một tác phẩm điêu khắc đá cho Nordpark Cable Railway, Guggenheim Hermitage tại Vilnius.
Nordpark Cable Railway
“Petit
Palais” in Paris
Dubai-opera-house main entrance…
Photo: Thomas Mayer
Congress Station
Photo: Thomas Mayer
Loewenhaus Station
Heer Bokelweg 149
3032 AD Rotterdam - Hòa Lan
Rem Koolhaas Architect (Office for Metropolitan Architecture – OMA)
Dubai
Rem Koolhaas Architect _ Prada Pavilion _ Seoul _ Nam Hàn _ 2009
Bạn sẽ yêu người thiết kế cặp công trình gồm tòa nhà làm việc khổng lồ của CCTV, và sàn Catwalk của Prada. 5. Steven Holl: 450 West 31st Street, 11th floor
New York, NY 10001, USA
Tổ hợp “ Linked Hybrid” tại Bắc Kinh, sẽ mở cửa vào cuối mùa thu, sẽ là sự thể hiện thông minh của công nghệ cao. Và cả công trình nhỏ hơn như bảo tàng nghệ thuật Nelson Atkins, sẽ thể hiện sự hấp dẫn ngoạn mục của sự tối giản.
'nanjing museum of art and architecture' steven holl, nanjing, china
image courtesy of steven holl
6. Foster + Partners: 22 Hester Road, London
SW11 4AN - Anh
nhà ga sân bay KaiTak, Hongkong
Xe buýt 2 tầng tại London, chiếc cầu cao nhất thế giới tại Pháp, sân bay khổng lồ tại Bắc Kinh, thể hiện sự đa dạng, tài năng của nhà thiết kế khổng lồ Anh quốc.
7. Renzo Piano:
Nhóm thiết kế của Học viện khoa học California với lớp mái gợn sóng, là sự tôn vinh của thiết kế sinh thái. Một đóng góp khác là trụ sở mới của The New York Times.
8. Christian de Portzamparc:
rue de l'Aude, 75C14 - Paris, Pháp
Một kiến trúc sư Pháp sinh ở Maroc được ngưỡng mộ nhưng ít biết tiếng trong nước Mỹ, de Portzamparc có một thiết kế nổi tiếng tháp LVMH tại New York, thiết kế nhà hát cực hấp dẫn cho dàn nhạc giao hưởng Luxembourg. Thiết kế nhà hát opera tại Rio de Janeiro như một điểm nhấn của thành phố.
9. KieranTimberlake: 420 North 20th Street
Philadelphia PA 19130.3828, Mỹ
Nhóm thiết kế “Cellophane House” của Museum of Modern Art tại New York hoàn thành vào cuối hè vừa qua.
10. Olson Sundberg Kundig Allen: 159 South Jackson St., Suite 600
Seattle, WA 98104, USA
Montecito Residence, Montecito, CA, 2008 công ty với nhiều thiết kế nổi tiếng trong các công trình công cộng quan trọng cũng như các công trình dân dụng.
Nguyễn Bắc (dịch theo archdaily.com)
Những công trình kiến trúc độc đáo chưa từng được xây dựng
Hotel Attraction, New York City (Mỹ), thiết kế năm 1908:Đây là tòa nhà cao nhất ở thành phố New York vào thời đó do kiến trúc sư Antoni Gaudi thiết kế. Nhà tháp cao đến 360m và bị coi là phi hiện thực vào thời điểm được thiết kế. Dự án này chỉ được nhiều người biết đến vào năm 1956 khi một phóng sự có nhan đề "Thế giới mới gọi là Gaudi" xuất hiện. Nhưng hiện nay, các bản vẽ của Gaudi được nghiên cứu để làm nền tảng cho dự án Ground Zero ở Manhattan.
Nguồn ảnh : GridSkipper, Aire Speciale
Tháp Illinois, Chicago (Mỹ), thiết kế năm 1956:
Tháp Illinois (ảnh bên) của kiến trúc sư Frank Lloyd Wright dự kiến sẽ cao 1.069m, gồm 528 tầng. Wright tin rằng thiết kế này có thể chấp nhận được về mặt kỹ thuật vào thời điểm nó được đề nghị.Tuy nhiên, một số vấn đề đã nảy sinh trong bản thiết kế tháp Illinois của Wright, trong đó bao gồm không gian cần để bố trí hệ thống thang máy đã chiếm quá nhiều diện tích ở những tầng dưới thấp. Cuối cùng dự án bị thất bại.
Fourth Grace, thành phố Liverpool (Anh), thiết kế năm 2002:
Mặc dù bị nhiều người chê bai, song thiết kế của kiến trúc sư Will Alsop cũng giành được chiến thắng và có tên gọi là "The Cloud" (Đám mây). Do công trình được xây dựng gần 3 cao ốc lịch sử khác ở khu Pier Head - gọi là "The Three Graces" - nên dự án có tên là "Fourth Grace".
Nhưng dự án bị hủy bỏ năm 2004 do chi phí quá cao. Fourth Grace là một phức hợp bao gồm khách sạn 107 phòng và các công trình khác như quán bar, nhà hàng và gallery.
Beacon of Progress, Chicago (Mỹ), thiết kế năm 1891:
Dự án tháp bằng đá "Beacon of Progress" của kiến trúc sư người Pháp tên là Desire Despradelle cao 457m và địa điểm xây dựng là công viên Jackson ở Chicago, nơi mọc lên tháp Chicago World's Fair năm 1893. Thiết kế bao gồm một đài vòng (nhà hát lớn) ở phần chân tháp đủ chỗ cho 100.000 người và cầu tàu kéo dài đến hồ Michigan.
Thành phố hiện đại, được thiết kế năm 1922 cho Paris (Pháp) :
Thành phố hiện đại là nơi ở của 3 triệu người, được thiết kế bởi kiến trúc sư Le Corbusier. Trung tâm của dự án là cụm các khối nhà chọc trời 60 tầng được xây dựng trên những khung thép và nằm gọn trong những bức tường kính khổng lồ. Ngay trung tâm thành phố là mạng lưới giao thông với những bến xe buýt và nhà ga tàu điện, cũng như hệ thống xa lộ và một sân bay. Le Corbusier cho rằng thiết kế này là cách hiệu quả nhất để giải quyết tình trạng khủng hoảng nhà ở nơi thành thị.
Tháp Talin, St. Petersburg (Nga), thiết kế năm 1917:
So với tháp Talin - nếu được xây dựng - thì tháp Eiffel ở Paris chỉ là “chú lùn”. Tháp Talin là cấu trúc bao gồm sắt, kính và thép. Tháp có hình xoắn ốc vươn cao đến 400m. Du khách tham quan sẽ di chuyển vòng quanh nhờ rất nhiều thiết bị cơ học.Phần chân tháp là một hình khối xoay được thiết kế làm nơi hội họp, tổ chức hội nghị lập pháp v.v... Hình khối này sẽ xoay đúng 1 vòng trong 1 năm. Phía trên hình khối là kim tự tháp nhỏ hơn, xoay 1 vòng trong 1 tháng, dành cho những hoạt động hành pháp.
Kim tự tháp Shimizu, Tokyo (Nhật Bản), thiết kế năm 2004:
Dự án được thực hiện trên vịnh Tokyo, Nhật Bản. Cấu trúc cao hơn Đại Kim tự tháp ở Giza 12 lần và là nơi ở của 750.000 người. Shimizu bao gồm 55 kim tự tháp nhỏ hơn và mỗi cấu trúc này có kích thước cỡ khách sạn Luxor ở Las Vegas. Tuy nhiên, thiết kế đã không được thực hiện do không có vật liệu siêu nhẹ và siêu cứng theo yêu cầu.
Tháp Ultima, San Francisco (Mỹ),thiết kế năm 1991:
Cấu trúc cao 3.218m là thiết kế của kiến trúc sư Eugene Tsui, bao gồm 500 tầng và là nơi ở của 1 triệu người. Thiết kế được xây dựng theo kiểu tổ mối ở châu Phi.
Cung điện Xôviết, Moskva (Liên Xô), thiết kế năm 1933:
Nếu được xây dựng, Cung điện Xôviết có thể trở thành cấu trúc cao nhất thế giới. Dự án đã thu hút được sự chú ý và tranh tài của hàng trăm kiến trúc sư trên thế giới.Dự án được khởi công xây dựng vào năm 1937 nhưng đã bị đình lại vì Thế chiến II bùng nổ. Nằm 1942, những khung thép của công trình được tháo dỡ để phục vụ xây dựng cầu và công sự.
Việt Khang (tổng hợp)
Trường học Telefonplan ở Stockholm: xóa bỏ "truyền thống"
Gần đây, một hệ thống trường học mới ở Thụy Điển đã loại bỏ toàn bộ các phòng học để ưu tiên môi trường nuôi dưỡng “sự tò mò và sáng tạo” của trẻ em.
Tập đoàn Vittra, đơn vị điều hành 30 trường học ở Thụy Điển, mong muốn việc học diễn ra ở mọi nơi trong trường – đã xóa bỏ tư tưởng “trường học truyền thống” với những dãy bàn dài xếp thẳng hàng trong 4 bức tường lớp học.
Vittra đã mở trường Telefonplan ở Stockholm theo mô hình mới này. Kiến trúc sư Rosan Bosch đã thiết kế lại trường học để trẻ có thể học tập độc lập trong các không gian mở trong khi nghỉ ngơi, hoặc thực hiện các dự án học tập theo nhóm tại các “ngôi làng”.
Trẻ có thể thoải mái nhảy, la hét hoặc nhào lộn trong “Phòng múa”
Đây là "Núi" – điểm tập trung của trường
Trên “Đỉnh núi” là sân chơi và nơi quan sát
Trong lòng “Núi” được gọi là "Động"
Xem một bộ phim bên trong “Động”
Trang thiết bị trong trường được bài trí thành các đường uốn lượn nối tiếp nhau, giúp học sinh dễ dàng trao đổi với nhau khi thực hiện các dự án học tập. Đây là một mô hình trường học “phi truyền thống” ở mọi khía cạnh: không có tên lớp, học sinh học trong các nhóm cùng trình độ, không nhất thiết phải cùng độ tuổi. Trẻ có thể xin học tại trường hoàn toàn miễn phí, miễn là có số cá nhân (giống như số bảo hiểm xã hội) và bố hoặc mẹ của trẻ nộp thuế cho Thụy Điển.
Đây là nhà ăn: học sinh được khuyến khích ăn trưa và học tập tại đây
Phía trong cửa sổ có không gian dành cho học cá nhân, nơi nhận được ánh sáng tự nhiên và đủ gần để có thể được bạn bè hỗ trợ khi cần
“Cây” tạo ra một "không gian tụ họp tự nhiên" – theo lời Rosan Bosch trên trang web của ông. Nó cũng là nơi tham khảo thông tin trong trường học
Gần “Cây” là những chiếc bàn nhỏ dành cho hoạt động nhóm
Đây là “Ngôi làng”, nơi học sinh gặp nhau để thực hiện các dự án học tập
Nơi này được Rosan Bosch đặt tên là "nội thất tạo không gian trò chuyện" – nơi học sinh có thể làm việc cá nhân hoặc theo nhóm
Mọi trẻ em đều có một máy laptop trong các trường của Vittra
Đây là “Nhà phấn”: bên trái là một phòng đa phương tiện, và bên phải là nơi đọc sách "chiêm niệm cá nhân"
"Những hòn đảo ngồi" được thiết kế cho học sinh ngồi nghỉ ngơi hoặc làm việc độc lập
Các bản vẽ mặt cắt và mặt bằng
Phương Thy (theo Business Insider)
Nhà hàng Charm Cham - Galery Cuisine
Charm Cham - Galery Cuisine nằm trong khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng, gây ấn tượng bởi lối kiến trúc Chăm cổ, được trang hoàng tỉ mỉ. Nơi đây có thể chứa hơn 600 khách, với 5 phòng VIP, sân thượng lộng gió...Bộ sưu tập các tượng thần bằng đất nung được bày trí tỉ mỉ trong
gian sảnh của nhà hàng Charm Cham.
Dọc theo lối đi có biểu tượng Linga, nét đặc trưng trong văn hóa
phồn thực của người Chăm.
Charm Cham gắn liền với tên tuổi của Công ty Khaisilk, tiếp sau thành công của hàng loạt nhà hàng “Fine Dining” tại Việt Nam, với tổng vốn đầu tư lên đến hơn 10 triệu USD. Nhà hàng nổi bật giữa không gian khoáng đạt ở khu thương mại dịch vụ Hồ Bán nguyệt, có diện tích 10 ha, mô phỏng cảnh quan đô thị vịnh Singapore với nhiều tòa nhà hiện đại dọc theo đường cong của hồ.
Charm Cham mô phỏng theo kiến trúc của đền Angkok Wat, như một ngôi đền nằm chếch hướng Tây trên bờ hồ, khéo léo đón ánh sáng rực rỡ của bình minh, hay được mạ vàng bởi nắng chiều phản chiếu lung linh xuống mặt hồ.
Một phòng ăn được trang hoàng tinh tế: tường chạm khắc họa tiết
Chăm cổ và các góc phòng đều có những bình gốm cao.
Mỗi phòng ăn dù lớn hay nhỏ đều có nhiều tượng, sáp vuông, họa tiết
cổ xưa và một bộ sưu tập rượu thượng hạng để phục vụ khách ẩm thực.
Bước trên bậc tam cấp cao hơn 4 m là cả bầu trời xanh vào ban ngày hay tấm thảm đầy sao vào ban đêm, đưa khách ẩm thực đến một thế giới khác. Những tượng Siva, Linga – biểu tượng của Chămpa bằng đất nung cũng được đích thân chủ nhân sưu tầm mang về từ Chămpa.
Lấy ý tưởng từ vương quốc Champa là trung tâm văn hóa Bắc Á từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 12 và sắc vàng đặc trưng của người Chăm, nhà hàng trở thành một bảo tàng kiến trúc thu nhỏ của những di vật cổ. Nhiều tượng điêu khắc ở đây thể hiện đời sống hàng ngày của người Chăm. Từ điệu vũ của các cô gái Chăm đến thế giới tâm linh thể hiện qua sự tôn kính sâu sắc đối với các vị thần và những chum, vại, bình cổ cao đều có mặt trong từng góc nhỏ của tòa nhà.
Gian sảnh chờ được trang trí một bức tượng Siva đặt trên bàn gỗ được
khắc họa tiết sinh động.
Những góc phòng thường được bày trí các vật thể lạ, quý hiếm theo
phong cách ấm cúng và gần gũi để thực khách chiêm ngưỡng đồ cổ.
Rest-room kiểu Chăm vừa cổ điển vừa hiện đại với những bồn rửa trải
toàn sỏi ba màu trắng, ngà và đen tạo không gian mới lạ và độc đáo.
Charm Cham có thể được coi là gallery ẩm thực đầu tiên của châu Á, nơi có tới hơn 1.300 loại rượu từ khắp thế giới. Những ký ức của văn hóa Champa cùng lối kiến trúc độc đáo, cách phục trang, âm nhạc truyền thống và hương vị ẩm thực đặc sắc của Ấn, Thái, Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản được tái hiện sống động tại Cham Charm. Tất cả tạo nên một không khí hoài cổ nơi bạn có thể thưởng thức đỉnh cao nghệ thuật ẩm thực trong không gian yên tĩnh, ấm cúng và sang trọng.
Những phong cách chủ đạo trong kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc
Sự hiện diện đầu tiên của kiến trúc Pháp ở Hà Nội là từ năm 1803, khi vua Nguyễn Gia Long cho xây lại thành Hà Nội theo kiểu Vauban dưới sự chỉ đạo của 4 kỹ sư công binh Pháp. Tuy nhiên phải đến khi thành lập khu Nhượng địa năm 1875 ở ven sông Hồng (kéo dài từ phố Phạm Ngũ Lão tới Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị ngày nay) thì những công trình phong cách kiến trúc Pháp mới thực sự có dấu ấn tại Hà Nội. Trải qua gần một thế kỷ (cuối thế kỷ 19 tới nửa đầu thế kỷ 20), kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc với sự phong phú về phong cách đã để lại cho Hà Nội một di sản kiến trúc quý giá.Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập tới những phong cách chủ đạo, để lại những dấu ấn rõ ràng trong kiến trúc thời kỳ này.
1. Phong cách kiến trúc Tiền thực dân
Ảnh 1: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (trước đây là Sở chỉ huy quân đội Pháp)
Phong cách kiến trúc Tiền thực dân ở Hà Nội bắt đầu hình thành từ chính khu Nhượng địa với những ngôi nhà làm việc, nhà ở cho sĩ quan và binh lính Pháp. Với mong muốn có được những không gian phù hợp với chức năng cần thiết nhưng tránh được cái nóng oi ả mùa hè, các sĩ quan công binh Pháp đã nghĩ ra một hình thức kiến trúc nhiệt đới thô sơ với các hành lang rộng bao lấy không gian chính.
Sau khi chiếm được thành Hà Nội và biến nó thành Sở chỉ huy quân đội Pháp, các sĩ quan công binh cũng xây dựng một loạt công trình trong thành nội cũng như trên trục đường nối khu nhượng địa với Hoàng Thành cũ (nay tuyến phố Tràng Tiền - Tràng Thi - Điện Biên Phủ) và khu vực xung quanh hồ Hoàn Kiếm theo phong cách Tiền thực dân.
Các công trình kiến trúc phong cách Tiền thực dân thường có mặt bằng hình chữ nhật đơn giản có hành lang rộng chạy xung quanh. Nhà thường có hai tầng, sàn tầng hai dùng dầm đỡ thép hình cuốn gạch ở trên. Mái dốc lợp ngói hoặc tôn. Tường chắn mái xây gạch dùng để trang trí mặt tiền có một vài hình thức tranh trí đơn giản như hàng con tiện hoặc đắp xi măng hình hoa lá. Hành lanh quanh nhà được tạo ra hình thức cuốn vòm hình cung hoặc bán cầu có khoá vòm.
Nhìn chung thì đây là phong cách mag tính công năng duy lý, ít chú trọng về mặt thẩm mỹ nên không có nhiều giá trị về mặt kiến trúc. Tuy vậy chúng cũng là đại diện cho kiến trúc Pháp thuộc thời kỳ sơ khởi nên cũng cần được tôn trọng ở một mức độ nhất định.
Một số công trình tiêu biểu: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (ảnh 1), Toà thị chính (chỉ còn toà nhà số 12 Lê Lai), một số nhà điều trị trong khuôn viên Quân y Viện 108 và bệnh viện Hữu Nghị.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 1-3 tầng, mặt bằng hình chữ nhật, mái dốc lợp ngói hoặc tôn, có hành lang bao quanh tạo ra hình thức cuốn vòm liên tục.
2. Phong cách kiến trúc Tân Cổ điển
Ảnh 2: Phủ Chủ tịch (trước đây là Phủ Toàn quyền Đông Dương)
Sau khi cơ bản chinh phục được toàn bộ lãnh thổ Đông Dương, người Pháp đã tiến hành một công cuộc xây dựng lớn ở Hà Nội nhằm biến nó thành thủ phủ toàn khu vực Đông Dương. Những công thự lớn tiêu biểu cho chính quyền thực dân như Phủ Toàn quyền, Dinh Thống Sứ, Toà án… được xây dựng. Để biểu đạt cho sự uy nghi của chính quyền mới thì không gì bằng việc sử dụng các hình thức kiến trúc Cổ điển. Sau này, phong cách Tân-Cổ điển còn ảnh hưởng sang các công trình lớn về kinh tế-văn hoá ở Hà Nội như ga Hàng Cỏ, trụ sở Công ty hoả xa Đông Dương-Vân Nam, Nhà hát Thành phố, Viện Radium Đông Dương… và nhiều biệt thự dành cho người Pháp ở Hà Nội. Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển ở Hà Nội thời kỳ này không còn là Tân-Cổ điển Pháp thuần tuý nữa mà mang nhiều màu sắc của chủ nghĩa Triết chung. Mặc dù vẫn sử dụng bố cục đối xứng nghiêm ngặt, các cấu trúc hình học và tỷ lệ vẫn được tuân thủ, các thức cổ điển vẫn mang tính áp đảo, song ở nhiều công trình các chi tiết của kiến trúc Phục hưng, Baroque cũng được sử dụng.
Phong cách kiến trúc Tân-Cổ điển là phong cách kiến trúc áp đảo đối với các công trình công cộng lớn ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc và cũng là phong cách mang dấu ấn mạnh mẽ nhất của kiến trúc thời kỳ này. Ảnh hưởng của nó thật đáng buồn, là còn đến tận những công trình kiến trúc công cộng mới xây dựng cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI ở Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Phủ Toàn quyền Đông Dương (ảnh 2), Dinh Thống sứ Bắc Kỳ, Phủ Thống sứ (12 Ngô Quyền), Ga Hàng Cỏ, Công ty Hoả xa Đông Dương - Vân Nam (82 Trần Hưng Đạo), Nhà hát lớn, Viện Radium Đông Dương (43 Quán Sứ), khách sạn Metropole (15 Ngô Quyền).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục cân đối, sử dụng nhiều thức cổ điển, mái dốc lợp ngói tây hoặc ngói đá, nhiều hình thức trang trí phong phú sử dụng các thức, chi tiết Cổ điển La Mã, Phục hưng, Baroque.
3. Phong cách kiến trúc địa phương Pháp
Ảnh 3: Trụ sở Bộ Tư pháp (trước đây là Trường nữ học Pháp)
Từ những năm 1900, một lượng khá lớn người Pháp đã tới Hà Nội làm việc, sinh sống. Họ mang theo những hoài niệm về quê hương thông qua những công trình kiến trúc nơi họ đã sống (chủ yếu là các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris) và do vậy cũng bắt đầu từ thời gian này, một loạt biệt thự, trường học cho người Pháp được xây dựng theo phong cách kiến trúc địa phương Pháp.
Các công trình phong cách địa phương miền Bắc Pháp có mái với độ dốc lớn, các công trình phong cách vùng Paris có độ dốc vừa phải có hệ con sơn gỗ đỡ phần mái nhô ra khỏi tường. Tuy nhiên cũng phải chú ý rằng kiến trúc phong cách địa phương Pháp xây dựng ở Hà Nội không giống hoàn toàn ở chính quốc mà đã mang nhiều tính công năng, thực dụng và dỡ bỏ nhiều những hình thức trang trí nguyên gốc. Những công trình phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội nhìn chung mang đậm tính hồi cố, duyên dáng, mang nhiều nét kiến trúc các địa phương miền Bắc nước Pháp và vùng Paris, tuy nhiên đã có những biến đổi nhất định để phù hợp với công năng mới và khí hậu nhiệt đời Việt Nam.
Một số công trình tiêu biểu: Grand Lycée AIber Sarraut (1B Hoàng Văn Thụ), Petit Lycée (8 Hai Bà Trưng), Trường nữ học Pháp (58 Trần Phú, ảnh 3) và một số biệt thự tại khu Ngoại giao đoàn.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà 2-3 tầng, mái dốc lợp ngói, có hệ con sơn đỡ mái bằng gỗ mảnh hình tam giác được tiện khắc công phu, hoạ tiết trang trí không nhiều nhưng khá tinh tế.
4. Phong các kiến trúc Art Deco
Ảnh 4: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (trước đây là Chi nhánh ngân hàng Đông Dương)
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các hoạt động kinh tế trở nên nhộn nhịp hơn, một làn sóng đầu tư của người Pháp, một phần nhỏ của người Hoa và người Việt diễn ra ở Hà Nội. Một loạt trụ sở ngân hàng, công ty và nhiều biệt thự tư nhân được xây dựng. Vì đây là các hoạt động đầu tư tư nhân nên chủ nhân của chúng cũng không cần nhờ tới các kiến trúc sư “cung đình” như A-H. Vildieu nữa. Các kiến trúc sư có đầu óc cách tân hơn được trọng dụng và từ đó một phong cách thiết kế hiện đại, giản dị và thực dụng, phù hợp với xu hướng kiến trúc đang phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ thời bấy giờ, phong cách Art Deco, được ứng dụng trong thiết kế nhiều công trình ở Hà Nội.
Kiến trúc Art Deco bắt đầu phát triển ở Hà Nội từ những năm 1920 và đặc biệt mạnh mẽ vào những năm 1930. Những công trình xây dựng theo xu hướng này thường sử dụng những hình khối kinh điển trong bố cục không gian, các khối vuông, chữ nhật kết hợp với các khối bán trụ tạo ra một hình thức kiến trúc hiện đại và giản dị. Thêm vào đó là các hoạ tiết trang trí bằng thép uốn hoặc đắp nổi bằng xi măng, thạch cao với đường nét mềm mại làm giảm bớt sự thô nặng của các khối chủ đạo. Đây cũng là hình loại kiến trúc được nghiên cứu và có nhiều sự cải biên nhằm tới sự hài hoà với khí hậu và cảnh quan Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Chi nhánh ngân hành Đông Dương (ảnh 4), nhà in IDEO (24 Tràng Tiền), công ty AVIA (39 Trần Hưng Đạo), Bưu điện (6 Đinh Lễ), các toà nhà số 91 Đinh Tiên Hoàng và 31 Tràng Tiền, cùng rất nhiều biệt thự trải từ quận Ba Đình tới cuối các phố Bà Triệu, Hàng Chuối.
Đặc điểm nhận dạng: Hình khối giản dị mang tính hiện đại, đại đa số là mái bằng, sử dụng với liều lượng vừa phải các hoạ tiết trang trí trên mặt đứng.
5. Phong cách kiến trúc Đông Dương
Ảnh 5: Trụ sở Bộ Ngoại giao (trước đây là Sở Tài chính Đông Dương)
Thập kỷ 1920 ở Hà Nội, sau khi một loạt công trình đại diện cho chính quyền thực dân theo phong cách Tân Cổ điển được xây dựng và đưa vào sử dụng cho thấy chúng hoàn toàn không phù hợp với khí hậu cũng như truyền thống thẩm mỹ và cảnh quan ở đây. Bản thân giới trí thức Pháp ở thuộc địa cũng nhận ra việc áp đặt những giá trị văn hoá từ chính quốc vào một đô thị bản địa có truyền thống văn hoá lâu đời và rất khó chấp nhận. Do vậy việc tìm tòi một phong cách kiến trúc vừa có khả năng đáp ứng công năng hiện đại, vừa phù hợp với khí hậu, cảnh quan và truyền thống văn hoá địa phương được một loạt kiến trúc sư người Pháp và sau đó là người Việt theo đuổi, từ đó tạo ra một phong cách kiến trúc kết hợp sau này được gọi là phong cách kiến trúc Đông Dương.
Kiến trúc theo phong cách Đông Dương là những công trình có cấu trúc mặt bằng, hình khối hoàn toàn theo kiểu Pháp thịnh hành lúc bấy giờ, nhưng đã có sự tìm tòi, biến đổi về mặt không gian và cấu tạo kiến trúc nhằm tạo ra những công trình có khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, cảnh quan cũng như truyền thống văn hoá bản địa. Các kiến trúc sư theo phong cách này thường sử dụng những hình thức và chi tiết kiến trúc truyền thống Việt Nam, Khmer trong việc tạo nên các bộ mái, ô văng che cửa, cùng các hoạ tiết trang trí khác. Nhìn chung đây là phong cách thành công nhất trong việc tạo ra những công trình kiến trúc đẹp, hiện đại, phù hợp với khí hậu, cảnh quan và văn hoá truyền thống bản địa thời kỳ Pháp thuộc.
Một số công trình tiêu biểu: Toà nhà chính Đại học Đông Dương (19 Lê Thánh Tông), Sở Tài chính (ảnh 5), Bảo tàng Louis Finot (*) (1 Phạm Ngũ Lão), Viện Pasteur (1 Y-éc-xanh), Nhà thờ Cửa Bắc, Câu lạc bộ thuỷ quân (36 Trần Phú).
Đặc điểm nhận dạng: Bố cục mặt bằng hình khồi đăng đối kiểu Châu Âu kinh điển. Sử dụng nhiều thức cột, mái và các chi tiết kiến trúc cổ truyền Việt Nam và Khmer, hệ thống cửa lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được chú trọng.
6. Phong cách kiến trúc Pháp - Hoa
Ảnh 6: Dinh thự số 26 Phan Bội Châu
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa có lẽ cũng xuất phát từ ý tưởng muốn xây dựng những công trình đáp ứng được công năng hiện đại nhưng vẫn mang màu sắc kiến trúc Á Đông. Tuy nhiên, khác với các kiến trúc theo phong cách Đông Dương, sử dụng đa phần cách thức kiến trúc, các yếu tố trang trí Việt Nam và Khmer, các tác giả của các công trình Pháp-Hoa lại hầu như sử dụng cách thức và yếu tố trang trí cổ điển Trung Hoa.
Kiến trúc phong cách Pháp-Hoa ở Hà nội thể hiện chủ yếu trong các dinh thự và biệt thự. Các ngôi nhà theo phong cách này thường chỉ có 2 tầng với cách bố trí tổng mặt bằng theo kiểu nhà chính - nhà phụ, đặc biệt ở các dinh thự thường có vườn trước rất lớn có bố trí non bộ. Mái dốc lợp ngói ống, ngói tráng men, bốn góc uốn cong và được trang trí khá cầu kỳ, con sơn đỡ mái dạng trồng đấu nhiếu lớp. Ở một số công trình có hệ thống cột tròn với các tai cột ngang. Phần trang trí được chú trọng nhiều với các yếu tố trang trí kiểu Trung Hoa cổ. Ở các công trình theo phong cách Pháp - Hoa ít thấy những giải pháp lấy ánh sáng hay thông gió tự nhiên phù hợp với khí hậu Hà Nội.
Một số công trình tiêu biểu: Dinh Tổng đốc Hoàng Trọng Phu (46 Hoàng Diệu), dinh thự số 26 Phan Bội Châu (ảnh 6), Nhà hàng Thuỷ Tạ, một số biệt thự trên các phố Phan Đình Phùng, Quán Thánh, và quanh hồ Thuyền Quang.
Đặc điểm nhận dạng: Nhà chính 2 tầng, mái dốc lợp ngói ống hoặc ngói tráng men, trang trí cầu kỳ, sử dụng nhiều thức và chi tiết kiến trúc cổ điển Trung Hoa.
7. Phong cách kiến trúc Neo-Gothic
Ảnh 7: Nhà thờ Làng Tám
Phong cách mà chúng tôi gọi là Neo-Gothic với ý nghĩa mong muốn phục hồi Gothic của những người thiết kế gắn liền với quá trình xây dựng các nhà thờ Công giáo ở Hà Nội. Năm 1883, lấy cớ chùa Báo Thiên đã cũ nát và ở trong tình trạng nguy hiểm, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh phá huỷ ngôi chùa, khu đất của nhà chùa được Công sứ M.Bonal nhượng lại cho Hội truyền giáo. Trên khu đất này, giám mục Puginier với tư cách là người thiết kế và chỉ đạo thi công, đã xây dựng nhà thờ Saint Joseph còn gọi là Nhà thờ lớn, hoàn thành năm 1888. Cùng với sự xâm nhập của đạo Thiên Chúa, rất nhiều nhà thờ lớn nhỏ cũng đựơc xây dựng ở các xứ đạo nội, ngoại thành Hà Nội trong thời gian sau đó.
Đặc điểm của kiến trúc nhà thờ ở Hà Nội đa phần là mô phỏng hình thức kiến trúc Gothic Pháp nhưng được giản lược rất nhiều. Đó là cách tổ chức mặt bằng hình chữ thập, mặt đứng ba nhịp, nhịp giữa là lối vào chính, phía trên có cửa sổ “hoa hồng”, hai bên là các lối vào phụ phía trên là tháp chuông. Tuy nhiên, khác với các nhà thờ Gothic Pháp sử dụng rất nhiều yếu tố trang trí, kiến trúc nhà thờ Hà Nội chỉ tổ chức nhiều cửa sổ hình cuốn nhọn kiểu Gothic mà hầu như không thêm vào các yếu tố trang trí nên trông khá khô khan. Trong số các công trình Neo-Go thic ở Hà Nội nổi lên một ngôi nhà thờ nhỏ ở quận Hoàng Mai, nhà thờ Làng Tám, kiến trúc nhà thờ này mang nhiều thần thái Gothic Pháp với một tỷ lệ khá hài hoà trên mặt đứng, kết hợp với nhiều hoạ tiết trang trí theo phong cách Gothic dù còn chưa tinh tế. Nhìn chung thì phong cách Neo - Gothic ở Hà Nội gắn liền với kiến trúc nhà thờ Công giáo, giá trị về mặt thẩm mỹ chưa cao song lại mang nhiều giá trị về mặt lịch sử và cảnh quan.
Một số công trình tiêu biểu: Nhà thờ lớn Hà Nội, nhà thờ Làng Tám (ảnh 7), nhà thờ Hàm Long (Gothic Anh).
Đặc điểm nhận dạng: Mặt đứng ba nhịp với ba cửa vào, phần trung tâm thấp hơn có cửa sổ “hoa hồng”, hai tháp cao ở hai bên. Bố trí nhiều cửa sổ cuốn nhọn kiểu Gothic, kính màu được sử dụng rộng rãi.
Chú thích :
- (*) Bảo tàng Lonis Finot do KTS Ernest Hébrard thiết kế, mặc dù có đưa vào một số thức và yếu tố kiến trúc Trung Hoa cổ nhưng đa phần vẫn là các thức, chi tiết Việt và Khmer cổ, phong cách chủ đạo vẫn là Phong cách Đông Dương.
- Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo và Nguyễn Đức Trường
Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội
Ảnh 1: Biệt thự trên phố Đặng Dung
Mặc dù mang danh Art Deco và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu kiến trúc trước đó như lập thể, trừu tượng, biểu hiện..., kiến trúc Art Deco không tự giới hạn mình vào các hình thức trang trí đơn thuần mà khẳng định tính tiên phong của mình bằng những khối hình học kinh điển trong bố cục không gian. Những băng cửa rộng chạy theo chiều ngang hay chiều dọc trên mặt đứng kết hợp với các hình thức trang trí bằng thép uốn hay việc sử dụng màu sắc cũng là những phương cách biểu hiện mới của Art Deco.
Ảnh 2: Biệt thự trên phố Chu Văn An
Hà Nội những năm 1930 dưới thời thịnh trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, bản qui hoạch đầu tiên của kiến trúc sư E. Hébrard đã bắt đầu hình thành trên thực địa với những với những đại lộ, những con phố mang đậm phong cách Pháp. Mặt đường trải nhựa thẳng tắp, vỉa hè rộng rãi với hai hàng cây xanh, thật khác xa những con đường chật chội trong khu phố cũ. Những lô đất ở đây tiếp tục được lấp đầy bởi các biệt thự, những lô lớn có diện tích tới 5 - 700 m2, thậm chí hàng nghìn m2 phân bố ở khu vực quận Ba Đình và một phần quận Hoàn Kiếm hiện nay, những lô đất nhỏ hơn cỡ 2 - 400 m2 phân bố ở khu vực phía dưới quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng hiện nay.
Ảnh 3: Biệt thự 2 tầng trên phố Lý Thường Kiệt
Kiến trúc biệt thự trên các lô đất này cũng bắt đầu thay đổi. Nhà mái dốc theo phong cách địa phương miền bắc nước Pháp rõ ràng là không thích hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam. Nhà theo phong cách Tân cổ điển với những hình thức trang trí rườm rà lại càng không thích hợp. Việc tìm tòi một hình thức nhà ở mới thích hợp với khí hậu địa phương trở nên cấp thiết, và những biệt thự theo phong cách Art Deco với những cải biên cho phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam tỏ ra rất thích hợp trong giai đoạn này.
Ảnh 4: Một biệt thự trên phố Chu Văn An bị thêm vào tầng mái một cách tuỳ tiện / Ảnh 5: Chi tiết dàn hoa trên mái
Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội có thể được chia thành hai loại theo dây chuyền công năng. Loại công năng hoàn chỉnh - hợp khối và loại công năng không hoàn chỉnh - phân tán. Loại biệt thự công năng hoàn chỉnh thường do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, được xây dựng trên những lô đất có diện tích lớn của các chủ nhân người Pháp hoặc quan lại người Việt (ảnh 1, 2, 3). Loại công năng không hoàn chỉnh và phân tán được xây dựng ở những lô đất có diện tích nhỏ hơn và chủ nhân là người Việt (ảnh 4). Điều này cũng giải thích cho việc bố trí khối nhà phụ tách ra khỏi khối nhà ở rất gần gũi với kiến trúc nhà ở cổ truyền Việt Nam, nó tạo ra một hình thức kiến trúc Hoà trộn (mixte) giữa kiến trúc Pháp và kiến trúc Việt.
Ảnh 6: Chi tiết trang trí lồng cầu thang / Ảnh 7: Chi tiết trang trí cầu thang chính
Về bố trí mặt bằng thì loại biệt thự công năng hoàn chỉnh – hợp khối thường có 3 tầng: Tầng 1 (tầng trệt) bố trí nhà xe rộng có thể để được tới 2 xe hơi, bếp, phòng ở gia nhân cho nhiều người, khu vệ sinh, kho… có chiều cao tương đối thấp (khoảng 3 m), tầng này còn có tác dụng ngăn cách sàn tầng ở tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, ngăn cản hữu hiệu hiện tượng đọng sương trên mặt sàn thường xảy ra trong điều kiện thời tiết ẩm ướt vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở Hà Nội. Tầng 2 bố trí phòng khách lớn, phòng sinh hoạt gia đình, giữa hai phòng này thường được liên hệ bằng một cửa đi rộng, phòng ăn bố trí gần cầu thang nội bộ để thuận tiện cho việc đưa đồ ăn từ bếp lên. Tầng 3 là các phòng ngủ trong đó phòng ngủ chính có cửa đi trực tiếp vào khu vệ sinh. Trên tầng thượng thường có một “phòng trà” diện tích khoảng trên chục m2, cửa sổ mở rộng ra các phía, được tổ chức như một nơi tụ tập các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ăn uống nhẹ vào những buổi tối đẹp trời. Giao thông theo chiều đứng ngôi nhà được đảm trách bởi hai cầu thang, cầu thang chính rộng tới khoảng 2m dẫn từ sân trước lên phòng khách, lan can cầu thang được xây bằng gạch và trang trí rất tinh tế bằng hoa văn hoặc các chậu cây cảnh (ảnh 7). Cầu thang nội bộ bố trí phía trong nhà có chiều rộng nhỏ hơn và thông từ tầng 1 lên tầng thượng.
Ảnh 8: Chi tiết trang trí lan can
Loại biệt thự công năng không hoàn chỉnh - phân tán thường có khối nhà chính 2 tầng: Tầng 1 bố trí phòng khách và phòng ăn có diện tích không lớn, tầng 2 bố trí các phòng ngủ, khu vệ sinh được tách thành hai phần xí tắm riêng biệt và phục vụ chung cho cả tầng, cầu thang bố trí trong nhà và liên hệ thẳng từ tầng 1 tới sân thượng. Khối nhà phụ nằm phía sau khối chính là nơi bố trí nơi để xe, kho, bếp, khu vệ sinh, phòng ở gia nhân và liên hệ với khối nhà chính qua sân trong.
Về tổ hợp hình khối không gian thì biệt thự Art Deco ở Hà Nội thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với các khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc mang tính hiện đại và giản dị.
Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở một vài công trình. Phần mái được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tông cốt thép và những hoạ tiết trang trí bằng vữa đắp. Ở những biệt thự lớn thì dàn cây xanh còn được bố trí ở sân vườn hoặc ngay tại sảnh tầng 2 (ảnh 5 và 10).
Ảnh 9: Chi tiết trang trí cửa đi / Ảnh 10: Chi tiết trang trí sân vườn
Phần mái bằng được cấu tạo đặc biệt để phù hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của biệt thự Art Deco ở Hà Nội. Mái được cấu tạo bởi hai lớp bê tông cốt thép đổ tại chỗ cách nhau khoảng 0,4 đến 0,6 m, giữa hai lớp này là các lỗ thoáng được đặt ở hai phía đối diện hoặc ở cả 4 phía của ngôi nhà, bên ngoài được trang trí bằng cả chất liệu và mà sắc rất thú vị. Cũng do cấu tạo mái bằng ở kiểu biệt thự này mà lần đầu tiên khái niệm sân thượng được đưa vào kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng cho phép người ở có được những hoạt động tiếp xúc với thiên nhiên vào buổi sáng và buổi tối ngay tại nhà mình, một điểm rất đáng lưu ý trong cuộc sống đô thị.
Biệt thự Art Deco ở Hà Nội là một phần của di sản kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên số lượng biệt thự còn giữ nguyên được dáng dấp ban đầu còn rất ít, chủ yếu là ở khu vực ngoại giao đoàn, đa phần các biệt thự do người Việt Nam ở đã biến dạng và xuống cấp trầm trọng. Do sự thiếu hiểu biết về các đặc trưng của Art Deco nên trong nhiều trường hợp cải tạo hoặc phục dựng một số biệt thự, các nhà thiết kế đã đưa vào những chi tiết kiến trúc rườm rà, xa lạ với phong cách Art Deco, làm hỏng những ngôn ngữ biểu cảm của loại biệt thự này. Thành phố cũng cần có những sách lược nhằm giữ cho di sản biệt thự Art Deco không “biến mất” trong tương lai gần vì đa số các biệt thự đều đã có tuổi thọ trên 70 năm.
Ghi chú:
Tuy nhiên với chính sách cấm đạo dưới thời Lê – Trịnh, các nhà thờ đều bị phá, đất đai bị tịch thu. Chỉ đến khi người Pháp bình định được Bắc Kỳ, khoảng những năm 1886-1887, giám mục Puginier đưa Tòa giám mục Tây Đàng ngoài về Hà Nội, quá trình xây dựng nhà thờ thiên chúa giáo mới phát triển mạnh.
Tới năm 1938, giáo phận Hà Nội có tới 145 nhà thờ lớn nhỏ, trong đó có một số nhà thờ có kiến trúc đẹp, được xây dựng ở những vị trí có thể coi là đắc địa của Thủ đô.
Nhà thờ Lớn Hà Nội có mặt bằng theo kiểu Basilica truyền thống – mặt bằng hình chữ nhật có phần cuối hình bán nguyệt. Mặt bằng công trình chia làm ba phần : Sảnh đón tiếp phía trên có Gác đàn ( nơi dành cho ca đoàn và nhạc công ), không gian dành cho giáo dân hành lễ và Cung thánh là nơi cử hành các thánh lễ.
Hình thức mặt đứng cho thấy đặc trưng phong cách kiến trúc Gothique của công trình. Mặt chính chia thành ba phần với hai tháp chuông vút cao ở hai bên, phần giữa thấp hơn được kết thúc bởi một đỉnh tường tam giác với cây Thánh giá như một điểm nhấn. Các mặt đứng nhà thờ sử dụng nhiều đường nét kiến trúc Gothique, cửa số hoa hồng trên mặt chính, các cửa đi và cửa sổ đều có dạng cuốn nhọn và được cấu trúc với số lượng lớn. Tuy nhiên nếu so với những nhà thờ Gothique ở Pháp thì các họa tiết trang trí mặt đứng ở nhà thờ lớn Hà Nội là tương đối đơn giản.
Mặc dù mặt chính chia thành ba phần nhưng nột thất nhà thờ lại được chia thành năm nhịp, nhịp giữa có kích thước lớn hơn hai lần các nhịp biên. Nội thất được trang trí dựa trên cơ sở các cuốn nhọn kiểu Gothique. Khu vực cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam với những chi tiết được chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh xảo. Hệ thống cửa sổ cuốn nhọn được lấp đầy bởi các bức tranh Thánh bằng kính màu làm cho không gian nột thất thêm huyền ảo. Như vậy nột thất nhà thờ được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa nghệ thuật trang trí Phương Đông và Phương Tây tạo ra mối giao hòa thú vị giữa hai nền văn hóa chính quốc và bản địa.
Phía trước nhà thờ còn có một quảng trường với tượng Đức Mẹ ở trung tâm. Quảng trường tuy không lớn nhưng cũng đủ để làm tăng giá trị cảnh quan của công trình.
Với những giá trị vê mặt lịch sử và kiến trúc, lại được xây dưng ở một vị trí đắc địa gần bờ hồ Hoàn Kiếm, nhà thờ Lớn xứng đáng được coi là một di sản văn hóa của Hà Nội, góp phần làm cho bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô thêm sinh động.
Nhà thờ Cửa Bắc có tên chính thức là Giáo đường Nữ vương các thánh tử đạo do kiến trúc sư Enest Hébrard thiết kế. Được xây dựng khoảng những năm 1925 – 1930 trên một khoảng đất chạy dài theo Boulevard Carnot (phố Phan Đình Phùng) nơi giao nhau với Rue Frères Shneider (phố Nguyễn Biểu) (*).
Mặt bằng không gian nhà thờ được cấu trúc theo nguyên tắc nhà thờ thời kỳ Phục Hưng kiểu chữ thập La Tinh. Mở đầu là một không gian đón tiếp nhỏ, tiếp theo là không gian dành cho các con chiên nghe giảng và kết thúc bởi không gian long trọng dành cho cha xứ hành lễ. Giữa hai khu vực này là không gian chuyển tiếp lớn dưới một mái vòm hình bán cầu, cánh bên phải là nơi thờ các thánh, cánh trái là nơi tiếp khách của cha xứ. Gác chuông theo hình thức nhấn lệch được bố trí ở phía bên phải lối vào chính. Không gian nội thất được cấu trúc và trang trí hoàn toàn theo kiểu nhà thờ Châu Âu thời Phục Hưng tiền kỳ.
Hình khối công trình rất đặc trưng bởi việc kiến trúc sư – tác giả đã tạo ra ở đây một không gian kiến trúc phi đối xứng với một tháp chuông vút cao phía bên sảnh chính, điều này làm cho nhà thờ Cửa Bắc có được nét độc đáo so với đa phần các công trình Thiên Chúa giáo có hình thức đăng đối nghiêm cẩn được xây dựng ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Hệ thống mái ngói kiểu Phương Đông được tác giả tổ chức kéo suốt từ gác chuông qua mái vòm tới các không gian chính và phụ cũng là nét đặc sắc của công trình. Các mái chính đều được tổ chức thành hai lớp theo kiểu chồng diêm, giữa chúng là hệ thống cửa sổ lấy sáng lắp kính hoặc cửa thông gió được trang trí bằng các hoạ tiết không quá cầu ký. Ngoài ra còn rất nhiều lớp mái phụ che nắng và chống mưa hắt cho các lối vào, các cửa thông gió lấy sáng, thậm chí còn có những lớp mái nhỏ chỉ mang tính chất trang trí đơn thuần.
Hệ thống cửa lấy sáng và trang trí được tác giả đặc biệt lưu tâm. Đầu tiên phải kể đến hệ ba cửa hoa hồng - một yếu tố trang trí, lấy sáng của kiến trúc Gothique, được đặt vào các mặt đứng phía Tây, Nam và Bắc. Các cửa này đều có diện tích rất lớn và được lắp kính cản quang kết hợp kính màu, tuy nhiên do được trang trí bằng các vòm cuốn và các cột đỡ, lại nằm dưới một hệ trang trí hình tam giác kết thúc các hồi mái nên cảm giác về kiến trúc Gothique ở đây là không còn. Tiếp đến là hệ các cửa lấy sáng cho tháp chuông, mái vòm và các không gian hành lễ. Đây đều là các cửa dạng cuốn vòm hoặc hình tròn có diện tích không lớn nhưng được mở liên tục, xung quanh cửa được trang trí bằng các cột đỡ mái đua khá đẹp và cầu kỳ. Nhờ hệ thống cửa lấy sáng này mà không gian nội thất nhà thờ luôn ngập tràn ánh sáng tự nhiên.
Sự kết hợp các yếu tố kiến trúc Phương Đông với những nguyên tắc tổ chức không gian nhà thờ công giáo truyền thống, sự hài hoà của công trình với cảnh quan thiên nhiên bản địa đã tạo ra được ấn tượng về một công trình Thiên Chúa giáo Việt Nam. Mặc dù ở một vị trí ít được chú ý, nhà thờ Cửa Bắc vẫn có thể được coi là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất thời kỳ Pháp thuộc ở Hà Nội.
Nhà thờ Hàm Long do một kiến trúc sư người Việt từng du học ở Pháp thường gọi là Docteur Thân thiết kế theo yêu cầu của linh mục Dopolit. Công việc xây dựng hoàn thành năm 1934 trên một khu vực tương đối rộng, nơi giao nhau giữa Boulevard Doudart de Lagré ( phố Hàm Long ) và Rue Jacquin ( phố Ngô Thì Nhậm ). Trên khu đất ngoài nhà thờ có mặt chính quay ra phố Doudart de Lagré, còn có nhà nguyện, nhà ở cha xứ, nhà sách.
Nhà thờ có cấu trúc mặt bằng kiểu basilica được chia thành ba phần chính: tiền sảnh, khu vực dành cho giáo dân và Cung thánh. Gian thờ bao gồm khu vực chính giữa thờ thánh Antoine, bên trái thờ chúa Jesus, bên phải thờ Đức Mẹ.
Kiến trúc nhà thờ nổi bật bởi tháp chuông nằm ở trung tâm mặt đứng. Tháp chuông được trang trí bởi những đường bao hình cuốn nhọn kiểu Gothique, bên trong là các của đi và cửa số có cùng hình thức tạo ra một ngọn tháp khá giản dị mà hài hòa. Các cửa sổ trên mặt chính và các mặt bên đều theo hình thức cuốn nhọn và được tổ hợp theo kiểu ghép từng cụm ba cửa trên nền tường được làm nhám bằng vữa. Nét đặt biệt ở đây là hệ thống cửa lấy sáng có hình quả trám đặt bên cạnh các motif trang trí hình tròn mang nhiều tính bản địa. Sau này xung quanh nhà thờ còn được trang trí bởi nhiều tượng Thánh có nét điêu khắc rất sinh động.
Mặt dù có quy mô không lớn, trang trí giản đị, nhưng nhà thờ Hàm Long lại có nét độc đáo rất riêng so với đa phần các nhà thờ Thiên chúa giáo khác ở Hà Nội thời Pháp thuộc.
Nhà thờ Làng Tám hay nhà thờ Thịnh Liệt do kiến trúc sư Thân thiết kế. Công trình được xây dựng vào năm 1911 trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc địa phận làng Thịnh Liệt, phía trước nhà thờ có một hồ nước lớn.
Mặt bằng nhà thờ được cấu trúc theo kiểu Basilica được chia thành 3 phần: tiền sảnh rộng rãi, tiếp đó là khu vực dành cho giáo dân và kết thúc bởi Cung thánh.
Mặt chính nhà thờ có bố cục đối xứng, phần giữa nổi bật với một lối vào hình cuốn vòm đột khởi lên tương đương hai tầng, lộ rõ phần bên trong được trang trí khá cầu kì với những cột mô phỏng thức Corinth đỡ một Fronton theo kiến trúc Phục Hưng, phía trên là những cửa sổ hoa hồng mô phỏng Gothique. Hai tháp chuông nhô cao với phần dưới có tiết diện hình vuông, phía trên là hình bát giác được trang trí cầu kì bởi các cửa cuốn vòm được đỡ bởi các cột Corinth cùng các cửa sổ hoa hồng nhỏ. Mặt đứng còn được trang trí bởi dãy tượng chúa Jesus và các thánh tông đồ đặt trong các cuốn vòm.
Các mặt bên và mặt sau được đặc trưng bởi hệ mái ngói hai lớp, giữa hai lớp mái là các cửa sổ cuốn vòm ghép đôi lồng trong một cuốn vòm trang trí được đỡ bởi các cột nhằm lấy ánh sáng cho lòng nhà thờ. Các cửa sổ lớp dưới cũng theo hình thức cuốn vòm, diềm hai lớp mái đều được trang trí rất cầu kỳ. Kết thúc mặt bên là một Fronton lớn, nhưng trang trí phía trong và phía trên của Fronton này lại là các hoa văn mang tính bản địa.
Kiến trúc nhà thờ Làng Tám mang tính triết chung, đặc trưng bởi sự hòa trộn các phong cách kiến trúc nhà thờ Phương Tây, kết hợp với một số hoạt tiết mang tính dân tộc. Tuy nhiên nhờ sự khéo léo của kiến trúc sư – tác giả, các sắc thấy kiến trúc ở đây vẫn được dung hòa và tọa ra được một tổng thể nhẹ nhàng, thanh lịch. Đây cũng là nhà thờ giàu tính trang trí bậc nhất ở Hà Nội.
Tiểu giáo đường Sainte Marie được xây dựng từ cuối thế kỉ 19 trong quần thể trường Dòng của các nữ tu sĩ dòng Saint Paul, không rõ tác giả thiết kế. Giáo đường chính là nơi các nữ tu tới cầu nguyện hàng ngày và chỉ phục vụ một nhóm đối tượng giáo dân.
Mặt chính của giáo đường quay ra phố Hai Bà Trưng ngày nay cho thấy kiến trúc công trình theo phong cách Tiền thực dân với một hành lang rất rộng với các cửa sổ cuốn gạch hình cung có khoá vòm. Điểm nhấn của công trình là một tháp chuông nhỏ hình trụ, phía trong có tám cột nhỏ, phía ngoài là bốn cột lớn được trang trí rất tinh tế đỡ mái gác chuông dạng vòm bán cầu, phía trên có thánh giá được trang trí bởi các họa tiết bằng sắt uốn.
Nội thất giáo đường bao gồm ba nhịp, nhịp giữa lớn hơn hai lần nhịp biên. Các nhịp được phân cách bởi hàng cột ghép bởi bốn nửa trụ, đầu cột trang trí bằng các họa tiết hình hoa lá. Các không gian chính trong nội thất gồm khu vực dành cho các nữ tu cầu nguyện và Thánh đường là nơi diễn ra các hoạt động chính của Thánh lễ, khu vực tôn nghiêm nhất trong giáo đường.
Che phủ phần nội thất công trình là các vòm cuốn nhọn kiểu Gothique tạo ra một không gian rộng rãi, khoáng đạt và một khung cảnh nhẹ nhàng, tràn ngập ánh sáng. Bên trong giáo đường vẫn còn giữ được bục giảng là nơi cha xứ giảng lễ, cho đến nay ở Hà Nội chỉ còn nhà thờ Cửa Bắc là nơi thứ hai duy trì được bộ phận này.
Tiểu giáo đường Sainte Marie tuy chỉ là một nhà thờ nhỏ nhưng có những nét kiến trúc đặc sắc và là một chứng tích hiếm thấy của kiến trúc Thiên chúa giáo có niên đại từ thời Tiền thực dân.
Một số nhà thờ được xây dựng ở những vị trí đẹp trong thành phố hoặc khu dân cư, tạo điểm nhấn cho không gian đô thị. Nhiều nhà thờ còn có diện tích khuôn viên rộng rãi, ngoài công trình chính còn có sân vườn và các hạng mục nhỏ khác, tạo ra những không gian xanh, phá vỡ sự đơn điệu của phố xá.
Như vậy có thể nói nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc đã góp phần tích cực tạo ra sự đa dạng, phong phú cho bộ mặt kiến trúc đô thị Hà Nội, cùng với những thể loại kiến trúc khác tạo ra ấn tượng về sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Đây vừa là một đại hí viện vừa là trung tâm văn hóa của Valencia. “Lâu đài” này mất 10 năm ròng rã để thi công và chính thức khai trương tháng 8 - 2005. Nhưng mãi đến tháng 10 - 2006 vở opera đầu tiên, Fidelio của Beethoven, mới chính thức được công diễn tại đây.
Mái cong uốn lượn bao phủ cấu trúc công trình
Bên dưới mái cong đồ sộ được uốn lượn kiểu cách là khối kiến trúc dài 230m với tổng cộng 14 tầng cao khoảng 75m kèm ba tầng hầm bên dưới. Toàn bộ đại hí viện rộng 40.000m2 này bao gồm một hồ nước rộng 11.000m2 bao bọc xung quanh, bên trong gồm bốn khán thính phòng chính:
- Hội trường chính (Sala Principal) gồm 1.700 chỗ ngồi, với chức năng chính là sân khấu để trình diễn các vở ca nhạc kịch, opera và các hoạt động nghệ thuật biểu diễn khác quy mô lớn. Hội trường chính gồm bốn dãy ghế; một sân khấu chuẩn được trang bị âm thanh, ánh sáng hoành tráng, chuyên nghiệp và tối tân; một khu vực dành cho dàn nhạc giao hưởng đặc biệt có thể chứa đến 120 nhạc công chơi cùng lúc - vốn là chỗ dành cho dàn nhạc được xếp vào hàng lớn thứ ba trên thế giới.
- Thính phòng quditorio bên trên hội trường chính với 1.500 chỗ ngồi và hệ thống trang thiết bị nghe nhìn đa năng dùng để tổ chức các buổi biểu diễn hòa nhạc cổ điển cho đến các sự kiện văn hóa chính trị.
- Phòng Aula Magistral có sức chứa 400 khán thính giả với công năng chủ yếu biểu diễn nhạc thính phòng quy mô nhỏ, trình diễn ballet, sân khấu kịch cũng như tổ chức các hội nghị.
- Sân khấu Marti I Soler được xây dựng bên dưới tầng hầm của “lâu đài” và có 400 chỗ ngồi được trang bị bên trong. Nơi đây được tận dụng thành trung tâm huấn luyện có tính chất như một nhạc viện quốc gia.
Toàn bộ dự án ngốn hết 165 triệu USD và trở thành một trong những nhà hát có công trình kiến trúc lớn nhất thế giới. Vật liệu chính được sử dụng cho công trình là bêtông trắng được khảm gốm bên ngoài, một lựa chọn khác thường nhằm nêu bật sự kết hợp giữa hai vật liệu truyền thống và hiện đại.
Những mảnh vỡ của gốm vốn là vật liệu truyền thống mà người dân thành phố Valencia thường hay sử dụng. Kiến trúc sư Calatrava không những muốn tạo nên một phong cách khác biệt cho riêng tác phẩm của ông mà còn tạo cho thành phố một địa điểm văn hóa nghệ thuật sáng giá.
Lâu đài lung linh, rực rỡ trong ánh đèn đêm
BẠCH NGỌC (Theo Moorewallpaper)
Ảnh 1: Trường Grand Lycée (Ảnh chụp đầu thế kỷ 20). Nguồn: myhanoigroup.com
Phong cách kiến trúc Địa phương Pháp của các trường học đầu tiên giành cho học sinh người Pháp gây ấn tượng mạnh đến mức mà sau đó, các trường học dành cho học sinh người Việt như các trường Lycée du Protectat, École Normale Supérieur Đỗ Hữu vị, Collège Henri Russier… đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc Địa phương Pháp.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì hầu hết các trường học ở Hà Nội xây dựng dưới thời kỳ Pháp thuộc mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp. Chúng tôi cũng chưa phát hiện ra một công trình công cộng nào lớn mang chức năng khác được thiết kế theo phong cách này.
Trường Grand Lycée Albert Saraut (nay là trụ sở Ban Đối ngoại trung ương Đảng trên phố Hoàng Văn Thụ) có thể coi là trường học bậc phổ thông lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, nhưng vì một số lý do chúng tôi chưa khảo sát được (Ảnh 1). Dưới đây là một số trường mà chúng tôi coi là tiêu biểu và có giá trị về mặt kiến trúc ở Hà Nội.
Trường Petit Lycée (trường PTTH Trần Phú ngày nay) được xây dựng cùng thời gian với trường Grand Lycée, tạo thành một cặp trường học theo mô hình các đô thị lớn ở Pháp, trong đó trường Petit Lycée dành cho học sinh các lớp thấp trong khối trung học thời bấy giờ.
Ảnh 2: Trường Petit Lycée - Hình vẽ: Phạm Duy Tùng
Trường được xây dựng trên khu đất rộng, án ngữ bởi ba đường phố, trong đó có hai trục phố lớn lúc bấy giờ là các phố Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và phố Rialan (phố Phan Chu Trinh). Tổng thể trường học gồm hai khối nhà: khối nhà học hai tầng hướng ra phố Rollandes, khối xưởng trường và các phòng thí nghiệm mọt tầng cách khối nhà học một khoảng sân rộng có hành lang cầu nối giữa chúng.
Nhà học chính hình chữ U gồm hai tầng, có hành lang cầu mái ngói đón từ cổng trường dẫn vào chính sảnh. Nhà được cấu trúc theo kiểu hai hành lang bên phía trước và phía sau, mỗi hành lang rộng 2m có hệ thống cửa sổ hành lang bao gồm cửa kính trong chớp ngoài. Cấu trúc mặt bằng theo kiểu đối xứng hoàn toàn. Tầng một có khu vực trung tâm là khối văn phòng và phòng nghỉ giáo viên, các phòng học được bố trí ở hai phía, mỗi phía gồm 4 lớp học dọc theo hành lang và một lớp được bố trí ở cánh chữ U, các phòng vệ sinh được bố trí ở hai đầu hồi có hệ thống cửa lấy sáng theo phương đứng. Ngăn cách giữa khối phòng học và khối văn phòng là hai cầu thang rộng 1,2m dẫn lên tầng hai. Khu vực trung tâm tầng 2 được bố trí các phòng làm việc, phòng hội đồng, các phòng học cũng được bố trí ở hai phía tương tự tầng 1, sàn phòng học bằng gỗ lim có tầng cách âm, ngoài ra còn có một cầu thang cuốn dẫn lên tầng 3, thực chất chỉ là một tầng chống nóng cho khu vực trung tâm nên khá thấp và có các cửa thông gió chèn gạch hoa ở các phía.
Hình khối không gian của khối nhà học được bố trí theo dạng đăng đối nghiêm ngặt với khối nhà hình chữ U có hai cánh bao lấy sân trước. Khối trung tâm được nhấn mạnh bởi chiều cao nổi trội với tháp đồng hồ ở giữa, các cửa sổ dạng cuốn vòm với bán kính cong nhỏ dần theo phương đứng, dãy cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa kết hợp với hàng công son bằng gỗ tiện đõ bờ mái làm tăng thêm vẻ kỳ thú của toà nhà, tháp đồng hồ được trang trí cầu kỳ tạo ra điểm nhấn cho khối trung tâm. Các khối phòng học ở hai phía có phong cách trang trí thống nhất với khối trung tâm nhưng có độ cao thấp hơn, cửa sổ cuốn vòm với bán kính nhỏ dần theo chiều đứng, mái được đưa ra khỏi tường khá nhiều và được đõ bởi hệ công son gỗ, các chi tiết trang trí bằng gạch trần tuy không cầu kỳ nhưng có tính thẩm mỹ cao.
Mặc dù mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp, nhưng các kiến trúc sư - tác giả toà nhà đã có những biến đổi về mặt bằng - không gian cho phù hợp điều kiện khí hậu nhiệt đới Hà Nội với kiểu bố cục hành lang rộng có cửa sổ bao quanh các lớp học làm cho các phòng học luôn thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Tầng áp mái với hàng cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa vừa có tính cách nhiệt tốt, vừa mang lại tính thẩm mỹ cao cho toà nhà. Nhìn chung thì đây là công trình công cộng phong cách Địa phương Pháp hầu như duy nhất ở Hà Nội, có “bóng dáng” nhiệt đới hoá, lại được nằm trong hệ thống cây xanh đặc trưng Hà Nội nên tạo ra cảm giác gần gũi với môi trường đô thị Thủ đô (Ảnh 2).
Trường Nữ học Pháp (nay là trụ sở Bộ Tư pháp) được xây dựng khoảng cuối những năm 1920 trên đường Gallieni (phố Trần Phú) và được giới hạn bởi các phố Brière de l’Isle (đường Hùng Vương) và Van Vollenhoven (phố Chu Văn An). Về qui mô xây dựng thì đây là trường phổ thông lớn thứ hai ở Hà Nội, chỉ sau Lycée Albert Saraut, và được dành riêng cho các nữ học sinh người Pháp.
Ảnh 3: Trường Nữ học Pháp
Trên mặt bàng tổng thể thì trường được hợp thành bởi khối nhà học chính ba tầng ở trung tâm, hai nhà điều hành được xây dựng giống như hai biệt thự ở hai phía của nhà chính theo qui luật đăng đối. Sân trường và các khu sinh hoạt ngoài trời bố trí phía sau.
Nhà học chính có ba tầng, tầng một bao gồm một chính sảnh rất rộng phù hợp với công năng đón / thoát người của một trường học lớn. Từ chính sảnh có thể theo hai hành lang bên rộng 1,8m tới các lớp học ở hai phía, cuối các hành lang là sảnh nhỏ dùng để thoát người có bố trí cầu thang phụ được chiếu sáng bởi các cửa kính lớn ở đầu hồi nhà và khu vệ sinh. Từ sảnh chính cũng có thể lên tầng hai bằng một cầu thang lớn hình chữ T rộng tới 3,2m. Tầng hai gồm phòng nghỉ giáo viên ở giữa và 12 lớp học được bố trí ở hai phía, các lớp học được bố trí ở một phía hành lang phía sau toà nhà và nhìn ra sân chơi. Tầng ba chỉ có ở khu trung tâm và có lẽ chỉ mang yếu tố thẩm mỹ cho mặt đứng chứ không có chức năng gì đặt biệt.
Về mặt tổ hợp hình khối không gian kiến trúc thì toà nhà được bố cục theo phong cách đối xứng hoàn toàn với khối trung tâm cao ba tầng nổi bật ở giữa. Khối nhà này được trang trí khá cầu kỳ với lượng mở cửa nhỏ dần theo chiều cao, các cửa cũng được kết thúc theo qui luật cuốn vòm bán kính nhỏ dần theo phương đứng. Các họa tiết trang trí ở phần tiền sảnh, xung quanh các cửa và giữa các tầng được gia công rất tinh tế. Mái ngói bốn mặt tạo ra một đỉnh nhọn, được cấu tạo nhô ra khỏi mặt tường một khoảng cách khá lớn và được đỡ bởi một hệ công son gỗ hình tam giác mảnh. Tháp đồng hồ nhỏ cắt giữa mái mang tinh thần kiến trúc cổ điển tạo ra nét duyên dáng và độc đáo của công trình này. Hai khối phòng học bên cao hai tầng với mặt đứng được tạo thành bởi các cửa sổ phòng học kết thúc theo chiều ngang ở tầng một và cuốn vòm ở tầng hai. Các hoạ tiết quanh cửa được bố trí khá cầu kỳ và thống nhất với khối trung tâm. Mái ngói cũng được đưa ra khỏi mặt tường một khoảng cảnh lớn và được đỡ bởi hệ công son kép. Đầu hồi nhà được kết thúc bởi hệ thống cửa lấy sáng cho cầu thang theo kiểu giật cấp khá độc đáo.
Trường Nữ học Pháp - Hình vẽ: Phạm Duy Tùng
Đối xứng qua trục chính của nhà học là ngôi nhà kiểu biệt thự hai tầng giống nhau hoàn toàn với cấu trúc hành lang giữa rộng 1,8m, hai bên là các phòng làm việc, giao thông theo chiều đứng được đảm nhiệm bởi một cầu thang bố trí phía đầu hồi nhà. Để hài hoà với nhà học chính, kiến trúc của hai biệt thự này cũng có một khối nhô lên ở giữa, tiền sảnh nhô ra tạo thành một hiên nhỏ, tường và cửa được trang trí theo cùng mẫu hình với nhà chính, mái ngói vươn ra khỏi tường và được đỡ bởi hệ công son gỗ đặc biệt cầu kỳ ở khối giữa. Nét duyên dáng riêng của hai biệt thự này là có nhiều ban công trang trí bằng hệ con tiện nhô ra ở cả bốn phía.
Với tỷ lệ hình khối độc đáo, phương cách tổ chức mặt đứng hài hoà, các hoạ tiết trang trí có tính thẩm mỹ cao, trường Nữ học Pháp có thể được coi là trường học đẹp nhất ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc này (Ảnh 3).
Trường Lycée du Protectorat còn gọi là trường Bưởi (trường PTTH Chu Văn An ngày nay) bắt đầu hoàn thành từ năm 1908, ban đầu chỉ là trường Collège du Protectorat (Tương đương trường trung học cơ sở hiện nay) và được nâng cấp thành trường Lycée (Trung học phổ thông) vào năm 1931.
Ảnh 4: Trường Collège du Protectorat
Khác với các trường trung học xây dành cho học sinh người Pháp được xây dựng theo kiểu tập trung ở các khu vực trung tâm thành phố, trường dành cho học sinh người Việt được xây dựng theo kiểu phân tán ở khu vực ngoại vi Hà Nội lúc bấy giờ thuộc địa phận làng Thụy Khuê (phố Thụy Khuê ngày nay). Trong khuôn viên nhà trường có tới 3 nhà học, 2 nhà thí nghiệm và xưởng trường, một nhà điều hành và một biệt thự cho giám đốc trường (*) được xây dựng trong các thời kỳ khác nhau.
Hai nhà học xây dựng những năm đầu thế kỷ 20 là các tòa nhà 3 tầng, hành lang bên rộng 2,5m, hành lang tầng 1 kiểu cuốn vòm mở ra bên ngoài, hành lang tầng 2 và 3 có hệ thống cửa sổ hành lang hai lớp kính - chớp. Liên hệ giữa các tầng là một cầu thang trung tâm rộng 1,2m, hai phía bố trí các phòng học, đầu hồi là khu vệ sinh. Hình khối không gian của hai tòa nhà cũng rất đơn giản, các cuốn vòm ở tầng 1 và các hệ thống cửa sổ tầng 2 và 3 gần giống nhau hoàn toàn trên bộ chiều dài nhà, không có bất kỳ sự nhấn mạnh nào ở khu vực trung tâm. Hình thức trang trí đơn giản, mái ngói với hệ thống sê nô thoát nước bằng tôn làm cho hình thức các tòa nhà này tương đối nhàm chán.
Tòa nhà học thứ ba cũng cao 3 tầng xây dựng khoảng những năm 1920, phong cách bố trí mặt bằng giống như hai tòa đã xây trước đó. Tuy nhiên trong việc tổ hợp hình khối kiến trúc và trang trí thì ở tòa nhà này đã có sự nâng cấp. Bên cạnh các cuốn vòm ở tầng 1 và hệ thống cửa sổ các tầng trên đã được thêm vào một số yếu tố trang trí trang nhã hơn, đặc biệt là hệ thống sê nô bê tông cốt thép mở rộng phía dưới lớp mái ngói được đỡ bởi hàng công son uốn cong làm cho tòa nhà trở nên uy nghi hơn. Nhìn chung thì đây là kiến trúc có giá trị duy nhất trong ba tòa nhà học của trường.
Ảnh 5: Nhà điều hành trường Lycée du Protectorat
Hai nhà thí nghiệm và xưởng trường một tầng nằm đối diện với các nhà học qua sân trường, được xây dựng khoản đầu những năm 1920. Mặt nằng bố trí theo kiểu hành lang bên có cửa sổ rộng 2,0m, ở giữa là các phòng thí nghiệm rộng rãi, hai đầu bố trí các phòng chuẩn bị và kho dụng cụ. Mặc dù chỉ là công trình phụ trợ, có độ cao khiêm tốn so với nhà học nhưng hai nhà thí nghiệm lại được thiết kế khá đẹp. Hệ thống cửa sổ và cửa đi kiểu cuốn vòm với các chi tiết trang trí bằng gạch trần và đắp vữa khá bắt mắt. Đầu hồi xử lý kiểu giật cấp với hệ cửa sổ theo phương đứng. Mái đua ra khỏi tường khá rộng và được đỡ bởi hệ công xon gõ tiện dạng kép trang trí công phu.
Khối văn phòng nhà trường được bố trí trong một ngôi nhà hai tầng kiểu biệt thự hành lang giữa, hai phía là các phòng làm việc, cầu thang và khu vệ sinh bố trí ở đầu hồi. Hình khối kiến trúc ngôi nhà khá đẹp do kiểu bố trí mặt bằng giật cấp tạo ra các khối trên mặt đứng. Cửa sổ và cửa đi được kết thúc bởi các cuốn vòm kết hợp với các họa tiết trang trí đơn giản nhưng trang nhã. Mái ngói có độ dốc vừa phải với khối thang nhô cao tạo điểm nhấn cho ngôi nhà.
Có thể nói trường Lycée du Protectorat là một điển hình cho dạng trường học cấu trúc phân tán ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc. Hai tòa nhà học xây dựng giai đoạn đầu có chất lượng thẩm mỹ không cao, nhưng các khối nhà xây dựng sau đó thì khá đẹp. Sự kết hợp giữa các tòa nhà và khối cây xanh trong sân trường tạo ra một tổng thể kiến trúc hài hòa mang đậm chất “ học đường” mà các trường dành cho học sinh người Pháp không có được (Ảnh 4,5).
Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị (trường THPT Phan Đình Phùng ngày nay) thành lập năm 1923 là một trường học lớn thời bấy giờ, về tầm vóc có thể so sánh với trường Bưởi, trường Đồng Khánh (trường THCS Trưng Vương ngày nay) và đều là những trường dành cho học sinh người Việt.
Ảnh 6: Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị
Trường nằm trên một khuôn viên rộng rãi được giới hạn bởi các phố Carnot (phố Phan Đình Phùng), Đỗ Hữu Vị (phố Cửa Bắc) và Grand Bouddha (Phố Quán Thánh). Nhà học chính là một tòa nhà ba tầng bố cục gần đăng đối. Mặt bằng các tầng bố trí như nhau theo kiểu hàng lang bên rộng 2,5m bao gồm cầu thang chính bằng gỗ rộng ở giữa, mỗi bên bố trí bốn lớp học, đầu hồi phía bên trái là khu vệ sinh, hồi phải bố trí thang phụ. Hình thức kiến trúc của tòa nhà gần giống với kiểu kiến trúc tòa nhà học xây những năm 1920 ở trường Bưởi nên cũng khá đẹp. Hàng lang tầng một được mở rộng ra sân trường bởi hành lang cuốn vòm trang trí khá cấu kỳ, hành lang các tầng 2 và 3 có cửa sổ hai lớp. Hình thức trang trí mặt đứng tương đối phong phú bao gồm các mô típ trang trí bằng vữa đắp kết hợp với cách trang trí bằng gạch trần phía trên cửa sổ tầng 3 kết hợp với hệ sê nô bê tông mở rộng tạo ra sự kết thúc rõ rệt của tòa nhà theo phương đứng. Nhà thí nghiệm và xưởng trường nằm vuông góc và được nối với nhà học bởi một hành lang cầu mái ngói. Đây là một ngôi nhà được cấu trúc khá độc đáo với hành lang bên rộng 2,0m quay vào sân trường có cửa sổ hai lớp, giữa hành lang và không gian bên trong chỉ được phân định tương đối bằng những cuốn vòm, mặt đứng quay ra phố Đỗ Hữu Vị được trang trí bằng hệ thống cửa sổ cao và các công xon gõ đỡ mái ngói khá đẹp nhưng nay đã xuống cấp trầm trọng.
Khối nhà văn phòng của trường được bố trí trong một biệt thự hai tầng quay ra phố Carnot. Đây thực chất là một nhà làm việc kiểu hành lang giữa xây dựng theo phong cách biệt thực địa phương Pháp khá xinh xắn nhưng cũng đã bị xuống cấp nặng nề và hiện đang trong quá trình tu bổ.
Cũng giống như trường Bưởi, École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị là một ngôi trường xây dựng theo kiểu phân tán trong một khuôn viên cây xanh rất rộng. Tuy nhiên khuôn viên nhà trường ngày nay đã bị thu hẹp, lại có nhiều nhà học mới xây chen vào nên giá trị về mặt kiến trúc tổng thể bị giảm đi đáng kể (Ảnh 6).
Nhận xét
- Kiến trúc các công trình công cộng phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu được thể hiện ở thể loại công trình trường học. Ban đầu là các trường dành cho học sinh người Pháp nên chúng được xây dựng theo phong cách Địa phương Pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý nhớ quê hương của học sinh. Sau đó thì các trường học xây dành cho học sinh người Việt cũng chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc này.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu ảnh hướng bởi kiến trúc miền Bắc và Tây Bắc nước Pháp với hệ thống các họa tiết trang trí trên mặt đứng có sự kết hợp với kiến trúc miền Trung nước Pháp chủ yếu thông qua bộ mái.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp có thể được chia thành hai nhóm: Nhóm các trường dành cho học sinh người Pháp như Grand Lyceé, Petit Lyceé, trường Nữ học Pháp mang tính hợp khối cao, nhà học chính đồ sộ và được cấu tạo đầy đủ các bộ phận như chính sảnh, các phòng nghỉ giáo viên… Nhóm các trường dành cho học sinh người Việt như trường Bưởi, trường Đỗ Hữu Vị, trường Henri Russier được thiết kế theo kiểu phân tán với các khối nhà học và các thí nghiệm được thiết kế tương đối đơn giản, công năng không đầy đủ, nhưng lại được xây dựng trong những khuôn viên cây xanh rộng nên tạo ra được những tổng thể trường học mang tính “sư phạm” hơn.
Kết luận
- Các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp là một bộ phận không thể tách rời trong di sản kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc.
- Kiến trúc phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội mặc dù mang đặc tính của kiến trúc các vùng miền khác nhau của nước Pháp, xong khi được xây dựng trong môi trường cảnh quan Hà Nội đã có những biến đổi nhất định và góp phần quan trọng vào bộ mặt kiến trúc một số khu vực nội thành Hà Nội, đặc biệt là khu trung tâm quận Ba Đình, nơi có nhiều trường học được bảo quản và duy tu tương đối tốt.
- Do chưa được đánh giá một cách đầy đủ và thận trọng nên một số công trình đã bị phá bỏ một cách đáng tiếc như tòa nhà học trường Collège Henri Russier (trường PTCS Nguyễn Công Trứ ngày nay) trên phố Nguyễn Trường Tộ, hay bị thu hẹp diện tích, để xuống cấp một số nhà đã có và đưa vào những công trình xây dựng dạng nhái Pháp cổ, hoàn toàn xa lạ về mặt phong cách với công trình kiến trúc Địa phương Pháp chủ đạo làm giảm đáng kể giá trị không gian kiến trúc tổng như trường THPT Phan Đình Phùng trên phố Cửa Bắc.
- Việc cải tạo các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp cho phù hợp với điều kiện sử dụng mới là cần thiết, xong khi đặt ra phương án cải tạo, các kiến trúc sư cần nắm vững đặc tính cơ bản của phong cách kiến trúc này để tránh việc phá vỡ không gian tổng thể hoặc đặc tính kiến trúc của những công trình này.
- Ảnh trong bài : KTS Trần Quốc Bảo
- Đặng Thái Hoàng: Kiến trúc Hà Nội thế kỷ XIX – XX. NXB Hà Nội, 1995
- F.Teronobu, Phạm Đình Việt và cộng sự: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội. NXB Xây dựng, 1997
- Hữu Ngọc, L. Borton: Kiến trúc Pháp ở Hà Nội. NXB Thế giới
- Nguyễn Đình Toàn: Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hoá bản địa trong kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ, 1997
- Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông: Thăng Long – Hà Nội, mười thế kỷ đô thị hoá. NXB Xây dựng, 2004
- Trần Huy Liệu: Lịch sử thủ đô Hà Nội. NXB Hà Nội, 2000.
Tiếng Pháp
- C. Pédelahore : Hanoi, le miroir de l’architecture indochinoise. Grase, 1982
- C. Pédelahore : Les éléments constitutifs de la ville de Hanoi. Grase, 1982
- L. G. Pineau : Urbanisme en Indochine. Hanoi, 1943
ThS.KTS Trần Quốc Bảo
Trong quá trình kiếm tìm những hình thức kiến trúc mới đầu thế kỉ 20 nhằm thoát ly khỏi Chủ nghĩa Cổ điển đã đã ngự trị kiến trúc thế giới trong suốt hơn 400 năm trước đó, chủ thuyết Art Deco đóng một vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của kiến trúc Art Deco đã thoát ly ra khỏi phạm vi một quốc gia hay một châu lục, những phương cách biểu hiện của Art Deco cũng không chỉ giới hạn ở những công trình kiến trúc thông thường mà còn vươn tới những toà nhà chọc trời ở Mỹ, một biểu tượng của công nghệ xây dựng mới nhất thời bấy giờ.
Ảnh 1: Biệt thự trên phố Đặng Dung
Mặc dù mang danh Art Deco và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu kiến trúc trước đó như lập thể, trừu tượng, biểu hiện..., kiến trúc Art Deco không tự giới hạn mình vào các hình thức trang trí đơn thuần mà khẳng định tính tiên phong của mình bằng những khối hình học kinh điển trong bố cục không gian. Những băng cửa rộng chạy theo chiều ngang hay chiều dọc trên mặt đứng kết hợp với các hình thức trang trí bằng thép uốn hay việc sử dụng màu sắc cũng là những phương cách biểu hiện mới của Art Deco.
Ảnh 2: Biệt thự trên phố Chu Văn An
Hà Nội những năm 1930 dưới thời thịnh trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, bản qui hoạch đầu tiên của kiến trúc sư E. Hébrard đã bắt đầu hình thành trên thực địa với những với những đại lộ, những con phố mang đậm phong cách Pháp. Mặt đường trải nhựa thẳng tắp, vỉa hè rộng rãi với hai hàng cây xanh, thật khác xa những con đường chật chội trong khu phố cũ. Những lô đất ở đây tiếp tục được lấp đầy bởi các biệt thự, những lô lớn có diện tích tới 5 - 700 m2, thậm chí hàng nghìn m2 phân bố ở khu vực quận Ba Đình và một phần quận Hoàn Kiếm hiện nay, những lô đất nhỏ hơn cỡ 2 - 400 m2 phân bố ở khu vực phía dưới quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng hiện nay.
Ảnh 3: Biệt thự 2 tầng trên phố Lý Thường Kiệt
Kiến trúc biệt thự trên các lô đất này cũng bắt đầu thay đổi. Nhà mái dốc theo phong cách địa phương miền bắc nước Pháp rõ ràng là không thích hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam. Nhà theo phong cách Tân cổ điển với những hình thức trang trí rườm rà lại càng không thích hợp. Việc tìm tòi một hình thức nhà ở mới thích hợp với khí hậu địa phương trở nên cấp thiết, và những biệt thự theo phong cách Art Deco với những cải biên cho phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam tỏ ra rất thích hợp trong giai đoạn này.
Ảnh 4: Một biệt thự trên phố Chu Văn An bị thêm vào tầng mái một cách tuỳ tiện / Ảnh 5: Chi tiết dàn hoa trên mái
Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội có thể được chia thành hai loại theo dây chuyền công năng. Loại công năng hoàn chỉnh - hợp khối và loại công năng không hoàn chỉnh - phân tán. Loại biệt thự công năng hoàn chỉnh thường do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, được xây dựng trên những lô đất có diện tích lớn của các chủ nhân người Pháp hoặc quan lại người Việt (ảnh 1, 2, 3). Loại công năng không hoàn chỉnh và phân tán được xây dựng ở những lô đất có diện tích nhỏ hơn và chủ nhân là người Việt (ảnh 4). Điều này cũng giải thích cho việc bố trí khối nhà phụ tách ra khỏi khối nhà ở rất gần gũi với kiến trúc nhà ở cổ truyền Việt Nam, nó tạo ra một hình thức kiến trúc Hoà trộn (mixte) giữa kiến trúc Pháp và kiến trúc Việt.
Ảnh 6: Chi tiết trang trí lồng cầu thang / Ảnh 7: Chi tiết trang trí cầu thang chính
Về bố trí mặt bằng thì loại biệt thự công năng hoàn chỉnh – hợp khối thường có 3 tầng: Tầng 1 (tầng trệt) bố trí nhà xe rộng có thể để được tới 2 xe hơi, bếp, phòng ở gia nhân cho nhiều người, khu vệ sinh, kho… có chiều cao tương đối thấp (khoảng 3 m), tầng này còn có tác dụng ngăn cách sàn tầng ở tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, ngăn cản hữu hiệu hiện tượng đọng sương trên mặt sàn thường xảy ra trong điều kiện thời tiết ẩm ướt vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở Hà Nội. Tầng 2 bố trí phòng khách lớn, phòng sinh hoạt gia đình, giữa hai phòng này thường được liên hệ bằng một cửa đi rộng, phòng ăn bố trí gần cầu thang nội bộ để thuận tiện cho việc đưa đồ ăn từ bếp lên. Tầng 3 là các phòng ngủ trong đó phòng ngủ chính có cửa đi trực tiếp vào khu vệ sinh. Trên tầng thượng thường có một “phòng trà” diện tích khoảng trên chục m2, cửa sổ mở rộng ra các phía, được tổ chức như một nơi tụ tập các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ăn uống nhẹ vào những buổi tối đẹp trời. Giao thông theo chiều đứng ngôi nhà được đảm trách bởi hai cầu thang, cầu thang chính rộng tới khoảng 2m dẫn từ sân trước lên phòng khách, lan can cầu thang được xây bằng gạch và trang trí rất tinh tế bằng hoa văn hoặc các chậu cây cảnh (ảnh 7). Cầu thang nội bộ bố trí phía trong nhà có chiều rộng nhỏ hơn và thông từ tầng 1 lên tầng thượng.
Ảnh 8: Chi tiết trang trí lan can
Loại biệt thự công năng không hoàn chỉnh - phân tán thường có khối nhà chính 2 tầng: Tầng 1 bố trí phòng khách và phòng ăn có diện tích không lớn, tầng 2 bố trí các phòng ngủ, khu vệ sinh được tách thành hai phần xí tắm riêng biệt và phục vụ chung cho cả tầng, cầu thang bố trí trong nhà và liên hệ thẳng từ tầng 1 tới sân thượng. Khối nhà phụ nằm phía sau khối chính là nơi bố trí nơi để xe, kho, bếp, khu vệ sinh, phòng ở gia nhân và liên hệ với khối nhà chính qua sân trong.
Về tổ hợp hình khối không gian thì biệt thự Art Deco ở Hà Nội thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với các khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc mang tính hiện đại và giản dị.
Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở một vài công trình. Phần mái được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tông cốt thép và những hoạ tiết trang trí bằng vữa đắp. Ở những biệt thự lớn thì dàn cây xanh còn được bố trí ở sân vườn hoặc ngay tại sảnh tầng 2 (ảnh 5 và 10).
Ảnh 9: Chi tiết trang trí cửa đi / Ảnh 10: Chi tiết trang trí sân vườn
Phần mái bằng được cấu tạo đặc biệt để phù hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của biệt thự Art Deco ở Hà Nội. Mái được cấu tạo bởi hai lớp bê tông cốt thép đổ tại chỗ cách nhau khoảng 0,4 đến 0,6 m, giữa hai lớp này là các lỗ thoáng được đặt ở hai phía đối diện hoặc ở cả 4 phía của ngôi nhà, bên ngoài được trang trí bằng cả chất liệu và mà sắc rất thú vị. Cũng do cấu tạo mái bằng ở kiểu biệt thự này mà lần đầu tiên khái niệm sân thượng được đưa vào kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng cho phép người ở có được những hoạt động tiếp xúc với thiên nhiên vào buổi sáng và buổi tối ngay tại nhà mình, một điểm rất đáng lưu ý trong cuộc sống đô thị.
Biệt thự Art Deco ở Hà Nội là một phần của di sản kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên số lượng biệt thự còn giữ nguyên được dáng dấp ban đầu còn rất ít, chủ yếu là ở khu vực ngoại giao đoàn, đa phần các biệt thự do người Việt Nam ở đã biến dạng và xuống cấp trầm trọng. Do sự thiếu hiểu biết về các đặc trưng của Art Deco nên trong nhiều trường hợp cải tạo hoặc phục dựng một số biệt thự, các nhà thiết kế đã đưa vào những chi tiết kiến trúc rườm rà, xa lạ với phong cách Art Deco, làm hỏng những ngôn ngữ biểu cảm của loại biệt thự này. Thành phố cũng cần có những sách lược nhằm giữ cho di sản biệt thự Art Deco không “biến mất” trong tương lai gần vì đa số các biệt thự đều đã có tuổi thọ trên 70 năm.
Ghi chú:
- Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo, Đào Thái Hà, Trần Chí Toàn, Phạm Trường Minh
- Hình vẽ trong bài của Đào Thái Hà
Kiến trúc nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc trong không gian đô thị Hà Nội
Khi vào Việt Nam truyền giáo, các đoàn giáo sĩ rất chú trọng tới việc xây dựng nhà thờ. Họ ý thức rằng nhà thờ không chỉ là nơi diễn ra các nghi lễ tôn giáo mà còn là nơi sinh hoạt của cộng đồng Thiên chúa giáo địa phương. Thăng Long – Hà Nội là một trong những địa chỉ hàng đầu trong việc truyền đạo Thiên Chúa ở Việt Nam nên ngay từ thời sơ kỳ truyền giáo, nhà thờ đã được xây dựng.Tuy nhiên với chính sách cấm đạo dưới thời Lê – Trịnh, các nhà thờ đều bị phá, đất đai bị tịch thu. Chỉ đến khi người Pháp bình định được Bắc Kỳ, khoảng những năm 1886-1887, giám mục Puginier đưa Tòa giám mục Tây Đàng ngoài về Hà Nội, quá trình xây dựng nhà thờ thiên chúa giáo mới phát triển mạnh.
Tới năm 1938, giáo phận Hà Nội có tới 145 nhà thờ lớn nhỏ, trong đó có một số nhà thờ có kiến trúc đẹp, được xây dựng ở những vị trí có thể coi là đắc địa của Thủ đô.
Một số nhà thờ tiêu biểu
Nhà thờ Lớn có tên chính thức là nhà thờ Saint Joseph do giám mục Puginier thiết kế, xây dựng trong những năm 1884-1886 trên khu đất thuộc các thôn Báo Thiên và Chân Cầm, phía Tây hồ Hoàn Kiếm. Khi mới xây dựng đây còn là khu vực hoang vắng, ít nhà cửa. Phải đến thập niên 1890, Rue de la Cathédrale ( phố Nhà Thờ ) mới được xây dựng hướng từ nhà thờ ra hồ Hoàn Kiếm, khi đó vị trí nhà thờ Lớn mới trở nên đắc địa và đóng vai trò quan trọng trong không gian đô thị trung tâm Hà Nội.Nhà thờ Lớn Hà Nội có mặt bằng theo kiểu Basilica truyền thống – mặt bằng hình chữ nhật có phần cuối hình bán nguyệt. Mặt bằng công trình chia làm ba phần : Sảnh đón tiếp phía trên có Gác đàn ( nơi dành cho ca đoàn và nhạc công ), không gian dành cho giáo dân hành lễ và Cung thánh là nơi cử hành các thánh lễ.
Hình thức mặt đứng cho thấy đặc trưng phong cách kiến trúc Gothique của công trình. Mặt chính chia thành ba phần với hai tháp chuông vút cao ở hai bên, phần giữa thấp hơn được kết thúc bởi một đỉnh tường tam giác với cây Thánh giá như một điểm nhấn. Các mặt đứng nhà thờ sử dụng nhiều đường nét kiến trúc Gothique, cửa số hoa hồng trên mặt chính, các cửa đi và cửa sổ đều có dạng cuốn nhọn và được cấu trúc với số lượng lớn. Tuy nhiên nếu so với những nhà thờ Gothique ở Pháp thì các họa tiết trang trí mặt đứng ở nhà thờ lớn Hà Nội là tương đối đơn giản.
Mặc dù mặt chính chia thành ba phần nhưng nột thất nhà thờ lại được chia thành năm nhịp, nhịp giữa có kích thước lớn hơn hai lần các nhịp biên. Nội thất được trang trí dựa trên cơ sở các cuốn nhọn kiểu Gothique. Khu vực cung thánh được trang trí theo nghệ thuật dân gian truyền thống Việt Nam với những chi tiết được chạm trổ hoa văn bằng gỗ sơn son thiếp vàng rất tinh xảo. Hệ thống cửa sổ cuốn nhọn được lấp đầy bởi các bức tranh Thánh bằng kính màu làm cho không gian nột thất thêm huyền ảo. Như vậy nột thất nhà thờ được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa nghệ thuật trang trí Phương Đông và Phương Tây tạo ra mối giao hòa thú vị giữa hai nền văn hóa chính quốc và bản địa.
Phía trước nhà thờ còn có một quảng trường với tượng Đức Mẹ ở trung tâm. Quảng trường tuy không lớn nhưng cũng đủ để làm tăng giá trị cảnh quan của công trình.
Với những giá trị vê mặt lịch sử và kiến trúc, lại được xây dưng ở một vị trí đắc địa gần bờ hồ Hoàn Kiếm, nhà thờ Lớn xứng đáng được coi là một di sản văn hóa của Hà Nội, góp phần làm cho bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô thêm sinh động.
Nhà thờ Cửa Bắc có tên chính thức là Giáo đường Nữ vương các thánh tử đạo do kiến trúc sư Enest Hébrard thiết kế. Được xây dựng khoảng những năm 1925 – 1930 trên một khoảng đất chạy dài theo Boulevard Carnot (phố Phan Đình Phùng) nơi giao nhau với Rue Frères Shneider (phố Nguyễn Biểu) (*).
Mặt bằng không gian nhà thờ được cấu trúc theo nguyên tắc nhà thờ thời kỳ Phục Hưng kiểu chữ thập La Tinh. Mở đầu là một không gian đón tiếp nhỏ, tiếp theo là không gian dành cho các con chiên nghe giảng và kết thúc bởi không gian long trọng dành cho cha xứ hành lễ. Giữa hai khu vực này là không gian chuyển tiếp lớn dưới một mái vòm hình bán cầu, cánh bên phải là nơi thờ các thánh, cánh trái là nơi tiếp khách của cha xứ. Gác chuông theo hình thức nhấn lệch được bố trí ở phía bên phải lối vào chính. Không gian nội thất được cấu trúc và trang trí hoàn toàn theo kiểu nhà thờ Châu Âu thời Phục Hưng tiền kỳ.
Hình khối công trình rất đặc trưng bởi việc kiến trúc sư – tác giả đã tạo ra ở đây một không gian kiến trúc phi đối xứng với một tháp chuông vút cao phía bên sảnh chính, điều này làm cho nhà thờ Cửa Bắc có được nét độc đáo so với đa phần các công trình Thiên Chúa giáo có hình thức đăng đối nghiêm cẩn được xây dựng ở Việt Nam thời Pháp thuộc.
Hệ thống mái ngói kiểu Phương Đông được tác giả tổ chức kéo suốt từ gác chuông qua mái vòm tới các không gian chính và phụ cũng là nét đặc sắc của công trình. Các mái chính đều được tổ chức thành hai lớp theo kiểu chồng diêm, giữa chúng là hệ thống cửa sổ lấy sáng lắp kính hoặc cửa thông gió được trang trí bằng các hoạ tiết không quá cầu ký. Ngoài ra còn rất nhiều lớp mái phụ che nắng và chống mưa hắt cho các lối vào, các cửa thông gió lấy sáng, thậm chí còn có những lớp mái nhỏ chỉ mang tính chất trang trí đơn thuần.
Hệ thống cửa lấy sáng và trang trí được tác giả đặc biệt lưu tâm. Đầu tiên phải kể đến hệ ba cửa hoa hồng - một yếu tố trang trí, lấy sáng của kiến trúc Gothique, được đặt vào các mặt đứng phía Tây, Nam và Bắc. Các cửa này đều có diện tích rất lớn và được lắp kính cản quang kết hợp kính màu, tuy nhiên do được trang trí bằng các vòm cuốn và các cột đỡ, lại nằm dưới một hệ trang trí hình tam giác kết thúc các hồi mái nên cảm giác về kiến trúc Gothique ở đây là không còn. Tiếp đến là hệ các cửa lấy sáng cho tháp chuông, mái vòm và các không gian hành lễ. Đây đều là các cửa dạng cuốn vòm hoặc hình tròn có diện tích không lớn nhưng được mở liên tục, xung quanh cửa được trang trí bằng các cột đỡ mái đua khá đẹp và cầu kỳ. Nhờ hệ thống cửa lấy sáng này mà không gian nội thất nhà thờ luôn ngập tràn ánh sáng tự nhiên.
Sự kết hợp các yếu tố kiến trúc Phương Đông với những nguyên tắc tổ chức không gian nhà thờ công giáo truyền thống, sự hài hoà của công trình với cảnh quan thiên nhiên bản địa đã tạo ra được ấn tượng về một công trình Thiên Chúa giáo Việt Nam. Mặc dù ở một vị trí ít được chú ý, nhà thờ Cửa Bắc vẫn có thể được coi là một trong những công trình kiến trúc đẹp nhất thời kỳ Pháp thuộc ở Hà Nội.
Nhà thờ Hàm Long do một kiến trúc sư người Việt từng du học ở Pháp thường gọi là Docteur Thân thiết kế theo yêu cầu của linh mục Dopolit. Công việc xây dựng hoàn thành năm 1934 trên một khu vực tương đối rộng, nơi giao nhau giữa Boulevard Doudart de Lagré ( phố Hàm Long ) và Rue Jacquin ( phố Ngô Thì Nhậm ). Trên khu đất ngoài nhà thờ có mặt chính quay ra phố Doudart de Lagré, còn có nhà nguyện, nhà ở cha xứ, nhà sách.
Nhà thờ có cấu trúc mặt bằng kiểu basilica được chia thành ba phần chính: tiền sảnh, khu vực dành cho giáo dân và Cung thánh. Gian thờ bao gồm khu vực chính giữa thờ thánh Antoine, bên trái thờ chúa Jesus, bên phải thờ Đức Mẹ.
Kiến trúc nhà thờ nổi bật bởi tháp chuông nằm ở trung tâm mặt đứng. Tháp chuông được trang trí bởi những đường bao hình cuốn nhọn kiểu Gothique, bên trong là các của đi và cửa số có cùng hình thức tạo ra một ngọn tháp khá giản dị mà hài hòa. Các cửa sổ trên mặt chính và các mặt bên đều theo hình thức cuốn nhọn và được tổ hợp theo kiểu ghép từng cụm ba cửa trên nền tường được làm nhám bằng vữa. Nét đặt biệt ở đây là hệ thống cửa lấy sáng có hình quả trám đặt bên cạnh các motif trang trí hình tròn mang nhiều tính bản địa. Sau này xung quanh nhà thờ còn được trang trí bởi nhiều tượng Thánh có nét điêu khắc rất sinh động.
Mặt dù có quy mô không lớn, trang trí giản đị, nhưng nhà thờ Hàm Long lại có nét độc đáo rất riêng so với đa phần các nhà thờ Thiên chúa giáo khác ở Hà Nội thời Pháp thuộc.
Nhà thờ Làng Tám hay nhà thờ Thịnh Liệt do kiến trúc sư Thân thiết kế. Công trình được xây dựng vào năm 1911 trên một khu đất rộng rãi, thoáng đãng thuộc địa phận làng Thịnh Liệt, phía trước nhà thờ có một hồ nước lớn.
Mặt bằng nhà thờ được cấu trúc theo kiểu Basilica được chia thành 3 phần: tiền sảnh rộng rãi, tiếp đó là khu vực dành cho giáo dân và kết thúc bởi Cung thánh.
Mặt chính nhà thờ có bố cục đối xứng, phần giữa nổi bật với một lối vào hình cuốn vòm đột khởi lên tương đương hai tầng, lộ rõ phần bên trong được trang trí khá cầu kì với những cột mô phỏng thức Corinth đỡ một Fronton theo kiến trúc Phục Hưng, phía trên là những cửa sổ hoa hồng mô phỏng Gothique. Hai tháp chuông nhô cao với phần dưới có tiết diện hình vuông, phía trên là hình bát giác được trang trí cầu kì bởi các cửa cuốn vòm được đỡ bởi các cột Corinth cùng các cửa sổ hoa hồng nhỏ. Mặt đứng còn được trang trí bởi dãy tượng chúa Jesus và các thánh tông đồ đặt trong các cuốn vòm.
Các mặt bên và mặt sau được đặc trưng bởi hệ mái ngói hai lớp, giữa hai lớp mái là các cửa sổ cuốn vòm ghép đôi lồng trong một cuốn vòm trang trí được đỡ bởi các cột nhằm lấy ánh sáng cho lòng nhà thờ. Các cửa sổ lớp dưới cũng theo hình thức cuốn vòm, diềm hai lớp mái đều được trang trí rất cầu kỳ. Kết thúc mặt bên là một Fronton lớn, nhưng trang trí phía trong và phía trên của Fronton này lại là các hoa văn mang tính bản địa.
Kiến trúc nhà thờ Làng Tám mang tính triết chung, đặc trưng bởi sự hòa trộn các phong cách kiến trúc nhà thờ Phương Tây, kết hợp với một số hoạt tiết mang tính dân tộc. Tuy nhiên nhờ sự khéo léo của kiến trúc sư – tác giả, các sắc thấy kiến trúc ở đây vẫn được dung hòa và tọa ra được một tổng thể nhẹ nhàng, thanh lịch. Đây cũng là nhà thờ giàu tính trang trí bậc nhất ở Hà Nội.
Tiểu giáo đường Sainte Marie được xây dựng từ cuối thế kỉ 19 trong quần thể trường Dòng của các nữ tu sĩ dòng Saint Paul, không rõ tác giả thiết kế. Giáo đường chính là nơi các nữ tu tới cầu nguyện hàng ngày và chỉ phục vụ một nhóm đối tượng giáo dân.
Mặt chính của giáo đường quay ra phố Hai Bà Trưng ngày nay cho thấy kiến trúc công trình theo phong cách Tiền thực dân với một hành lang rất rộng với các cửa sổ cuốn gạch hình cung có khoá vòm. Điểm nhấn của công trình là một tháp chuông nhỏ hình trụ, phía trong có tám cột nhỏ, phía ngoài là bốn cột lớn được trang trí rất tinh tế đỡ mái gác chuông dạng vòm bán cầu, phía trên có thánh giá được trang trí bởi các họa tiết bằng sắt uốn.
Nội thất giáo đường bao gồm ba nhịp, nhịp giữa lớn hơn hai lần nhịp biên. Các nhịp được phân cách bởi hàng cột ghép bởi bốn nửa trụ, đầu cột trang trí bằng các họa tiết hình hoa lá. Các không gian chính trong nội thất gồm khu vực dành cho các nữ tu cầu nguyện và Thánh đường là nơi diễn ra các hoạt động chính của Thánh lễ, khu vực tôn nghiêm nhất trong giáo đường.
Che phủ phần nội thất công trình là các vòm cuốn nhọn kiểu Gothique tạo ra một không gian rộng rãi, khoáng đạt và một khung cảnh nhẹ nhàng, tràn ngập ánh sáng. Bên trong giáo đường vẫn còn giữ được bục giảng là nơi cha xứ giảng lễ, cho đến nay ở Hà Nội chỉ còn nhà thờ Cửa Bắc là nơi thứ hai duy trì được bộ phận này.
Tiểu giáo đường Sainte Marie tuy chỉ là một nhà thờ nhỏ nhưng có những nét kiến trúc đặc sắc và là một chứng tích hiếm thấy của kiến trúc Thiên chúa giáo có niên đại từ thời Tiền thực dân.
Thống kê – Phân loại
Các giá trị kiến trúc – cảnh quan của nhà thờ Thiên chúa giáo
Nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc ở Hà Nội được dựng nên bởi tài năng, trí tuệ và công sức của nhân dân, được chăm chút bởi bàn tay những người thợ tài hoa và sử dụng những vật liệu địa phương quý hiếm. Đa phần các nhà thờ đều đạt được tỉ lệ hài hòa cũng như tương quan thích hợp giữa các thành phần kiến trúc, có giá trị thẩm mỹ cao. Một số nhà thờ còn khai thác những đường nét kiến trúc dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố và thành phần kiến trúc Á-Âu tạo ra ấn tượng đẹp về nhà thờ thiên chúa giáo mang tính độc đáo Việt Nam.Một số nhà thờ được xây dựng ở những vị trí đẹp trong thành phố hoặc khu dân cư, tạo điểm nhấn cho không gian đô thị. Nhiều nhà thờ còn có diện tích khuôn viên rộng rãi, ngoài công trình chính còn có sân vườn và các hạng mục nhỏ khác, tạo ra những không gian xanh, phá vỡ sự đơn điệu của phố xá.
Như vậy có thể nói nhà thờ Thiên chúa giáo thời Pháp thuộc đã góp phần tích cực tạo ra sự đa dạng, phong phú cho bộ mặt kiến trúc đô thị Hà Nội, cùng với những thể loại kiến trúc khác tạo ra ấn tượng về sự gắn bó giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
- (*) Có tư liệu cho rằng nhà thờ Cửa Bắc do linh mục, kiến trúc sư Dopolit thiết kế và được xây dựng năm 1931 – 1932, nhưng một số tư liệu khác lại cho rằng linh mục Dopolit chỉ là người khởi xướng việc xây dựng nhà thờ này.
Lâu đài nghệ thuật Queen Sofia
Thành phố Valencia - nơi được mệnh danh là thành phố nghệ thuật và khoa học của Tây Ban Nha - vừa cho ra đời một trong những tác phẩm nghệ thuật đương đại độc đáo do kiến trúc sư nổi tiếng thế giới Santiago Calatrava thiết kế. Đó chính là lâu đài nghệ thuật Queen Sofia (El Palau de les arts Reina Sofía).Đây vừa là một đại hí viện vừa là trung tâm văn hóa của Valencia. “Lâu đài” này mất 10 năm ròng rã để thi công và chính thức khai trương tháng 8 - 2005. Nhưng mãi đến tháng 10 - 2006 vở opera đầu tiên, Fidelio của Beethoven, mới chính thức được công diễn tại đây.
Mái cong uốn lượn bao phủ cấu trúc công trình
Bên dưới mái cong đồ sộ được uốn lượn kiểu cách là khối kiến trúc dài 230m với tổng cộng 14 tầng cao khoảng 75m kèm ba tầng hầm bên dưới. Toàn bộ đại hí viện rộng 40.000m2 này bao gồm một hồ nước rộng 11.000m2 bao bọc xung quanh, bên trong gồm bốn khán thính phòng chính:
- Hội trường chính (Sala Principal) gồm 1.700 chỗ ngồi, với chức năng chính là sân khấu để trình diễn các vở ca nhạc kịch, opera và các hoạt động nghệ thuật biểu diễn khác quy mô lớn. Hội trường chính gồm bốn dãy ghế; một sân khấu chuẩn được trang bị âm thanh, ánh sáng hoành tráng, chuyên nghiệp và tối tân; một khu vực dành cho dàn nhạc giao hưởng đặc biệt có thể chứa đến 120 nhạc công chơi cùng lúc - vốn là chỗ dành cho dàn nhạc được xếp vào hàng lớn thứ ba trên thế giới.
- Thính phòng quditorio bên trên hội trường chính với 1.500 chỗ ngồi và hệ thống trang thiết bị nghe nhìn đa năng dùng để tổ chức các buổi biểu diễn hòa nhạc cổ điển cho đến các sự kiện văn hóa chính trị.
- Phòng Aula Magistral có sức chứa 400 khán thính giả với công năng chủ yếu biểu diễn nhạc thính phòng quy mô nhỏ, trình diễn ballet, sân khấu kịch cũng như tổ chức các hội nghị.
- Sân khấu Marti I Soler được xây dựng bên dưới tầng hầm của “lâu đài” và có 400 chỗ ngồi được trang bị bên trong. Nơi đây được tận dụng thành trung tâm huấn luyện có tính chất như một nhạc viện quốc gia.
Toàn bộ dự án ngốn hết 165 triệu USD và trở thành một trong những nhà hát có công trình kiến trúc lớn nhất thế giới. Vật liệu chính được sử dụng cho công trình là bêtông trắng được khảm gốm bên ngoài, một lựa chọn khác thường nhằm nêu bật sự kết hợp giữa hai vật liệu truyền thống và hiện đại.
Những mảnh vỡ của gốm vốn là vật liệu truyền thống mà người dân thành phố Valencia thường hay sử dụng. Kiến trúc sư Calatrava không những muốn tạo nên một phong cách khác biệt cho riêng tác phẩm của ông mà còn tạo cho thành phố một địa điểm văn hóa nghệ thuật sáng giá.
Lâu đài lung linh, rực rỡ trong ánh đèn đêm
BẠCH NGỌC (Theo Moorewallpaper)
Kiến trúc trường học phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội
Trong thời kỳ tiến hành Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, đặc biệt từ 1920, năm mở đầu cho Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương, rất nhiều người Pháp mang theo cả gia đình sang Hà Nội làm ăn, sinh sống. Nhu cầu học hành cho con em của họ dẫn tới việc xây dựng một loạt trường học dành cho học sinh người Pháp. Mở đầu là trường Grand Lycée Albert Saraut, tiếp đến là các trường Petit Lycée và trường Nữ học Pháp. Vì là các trường dành riêng cho con em người Pháp nên các nhà đầu tư cũng muốn đưa phong cách kiến trúc Địa phương Pháp vào việc xây dựng các ngôi trường này để thoả mãn tâm lý nhớ quê hương của những học sinh mới sang Việt Nam.Ảnh 1: Trường Grand Lycée (Ảnh chụp đầu thế kỷ 20). Nguồn: myhanoigroup.com
Phong cách kiến trúc Địa phương Pháp của các trường học đầu tiên giành cho học sinh người Pháp gây ấn tượng mạnh đến mức mà sau đó, các trường học dành cho học sinh người Việt như các trường Lycée du Protectat, École Normale Supérieur Đỗ Hữu vị, Collège Henri Russier… đều được xây dựng theo phong cách kiến trúc Địa phương Pháp.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì hầu hết các trường học ở Hà Nội xây dựng dưới thời kỳ Pháp thuộc mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp. Chúng tôi cũng chưa phát hiện ra một công trình công cộng nào lớn mang chức năng khác được thiết kế theo phong cách này.
Trường Grand Lycée Albert Saraut (nay là trụ sở Ban Đối ngoại trung ương Đảng trên phố Hoàng Văn Thụ) có thể coi là trường học bậc phổ thông lớn nhất được xây dựng ở Hà Nội dưới thời Pháp thuộc, nhưng vì một số lý do chúng tôi chưa khảo sát được (Ảnh 1). Dưới đây là một số trường mà chúng tôi coi là tiêu biểu và có giá trị về mặt kiến trúc ở Hà Nội.
Trường Petit Lycée (trường PTTH Trần Phú ngày nay) được xây dựng cùng thời gian với trường Grand Lycée, tạo thành một cặp trường học theo mô hình các đô thị lớn ở Pháp, trong đó trường Petit Lycée dành cho học sinh các lớp thấp trong khối trung học thời bấy giờ.
Ảnh 2: Trường Petit Lycée - Hình vẽ: Phạm Duy Tùng
Trường được xây dựng trên khu đất rộng, án ngữ bởi ba đường phố, trong đó có hai trục phố lớn lúc bấy giờ là các phố Rollandes (phố Hai Bà Trưng) và phố Rialan (phố Phan Chu Trinh). Tổng thể trường học gồm hai khối nhà: khối nhà học hai tầng hướng ra phố Rollandes, khối xưởng trường và các phòng thí nghiệm mọt tầng cách khối nhà học một khoảng sân rộng có hành lang cầu nối giữa chúng.
Nhà học chính hình chữ U gồm hai tầng, có hành lang cầu mái ngói đón từ cổng trường dẫn vào chính sảnh. Nhà được cấu trúc theo kiểu hai hành lang bên phía trước và phía sau, mỗi hành lang rộng 2m có hệ thống cửa sổ hành lang bao gồm cửa kính trong chớp ngoài. Cấu trúc mặt bằng theo kiểu đối xứng hoàn toàn. Tầng một có khu vực trung tâm là khối văn phòng và phòng nghỉ giáo viên, các phòng học được bố trí ở hai phía, mỗi phía gồm 4 lớp học dọc theo hành lang và một lớp được bố trí ở cánh chữ U, các phòng vệ sinh được bố trí ở hai đầu hồi có hệ thống cửa lấy sáng theo phương đứng. Ngăn cách giữa khối phòng học và khối văn phòng là hai cầu thang rộng 1,2m dẫn lên tầng hai. Khu vực trung tâm tầng 2 được bố trí các phòng làm việc, phòng hội đồng, các phòng học cũng được bố trí ở hai phía tương tự tầng 1, sàn phòng học bằng gỗ lim có tầng cách âm, ngoài ra còn có một cầu thang cuốn dẫn lên tầng 3, thực chất chỉ là một tầng chống nóng cho khu vực trung tâm nên khá thấp và có các cửa thông gió chèn gạch hoa ở các phía.
Hình khối không gian của khối nhà học được bố trí theo dạng đăng đối nghiêm ngặt với khối nhà hình chữ U có hai cánh bao lấy sân trước. Khối trung tâm được nhấn mạnh bởi chiều cao nổi trội với tháp đồng hồ ở giữa, các cửa sổ dạng cuốn vòm với bán kính cong nhỏ dần theo phương đứng, dãy cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa kết hợp với hàng công son bằng gỗ tiện đõ bờ mái làm tăng thêm vẻ kỳ thú của toà nhà, tháp đồng hồ được trang trí cầu kỳ tạo ra điểm nhấn cho khối trung tâm. Các khối phòng học ở hai phía có phong cách trang trí thống nhất với khối trung tâm nhưng có độ cao thấp hơn, cửa sổ cuốn vòm với bán kính nhỏ dần theo chiều đứng, mái được đưa ra khỏi tường khá nhiều và được đõ bởi hệ công son gỗ, các chi tiết trang trí bằng gạch trần tuy không cầu kỳ nhưng có tính thẩm mỹ cao.
Mặc dù mang phong cách kiến trúc Địa phương Pháp, nhưng các kiến trúc sư - tác giả toà nhà đã có những biến đổi về mặt bằng - không gian cho phù hợp điều kiện khí hậu nhiệt đới Hà Nội với kiểu bố cục hành lang rộng có cửa sổ bao quanh các lớp học làm cho các phòng học luôn thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông. Tầng áp mái với hàng cửa thông gió trang trí bằng gạch hoa vừa có tính cách nhiệt tốt, vừa mang lại tính thẩm mỹ cao cho toà nhà. Nhìn chung thì đây là công trình công cộng phong cách Địa phương Pháp hầu như duy nhất ở Hà Nội, có “bóng dáng” nhiệt đới hoá, lại được nằm trong hệ thống cây xanh đặc trưng Hà Nội nên tạo ra cảm giác gần gũi với môi trường đô thị Thủ đô (Ảnh 2).
Trường Nữ học Pháp (nay là trụ sở Bộ Tư pháp) được xây dựng khoảng cuối những năm 1920 trên đường Gallieni (phố Trần Phú) và được giới hạn bởi các phố Brière de l’Isle (đường Hùng Vương) và Van Vollenhoven (phố Chu Văn An). Về qui mô xây dựng thì đây là trường phổ thông lớn thứ hai ở Hà Nội, chỉ sau Lycée Albert Saraut, và được dành riêng cho các nữ học sinh người Pháp.
Ảnh 3: Trường Nữ học Pháp
Trên mặt bàng tổng thể thì trường được hợp thành bởi khối nhà học chính ba tầng ở trung tâm, hai nhà điều hành được xây dựng giống như hai biệt thự ở hai phía của nhà chính theo qui luật đăng đối. Sân trường và các khu sinh hoạt ngoài trời bố trí phía sau.
Nhà học chính có ba tầng, tầng một bao gồm một chính sảnh rất rộng phù hợp với công năng đón / thoát người của một trường học lớn. Từ chính sảnh có thể theo hai hành lang bên rộng 1,8m tới các lớp học ở hai phía, cuối các hành lang là sảnh nhỏ dùng để thoát người có bố trí cầu thang phụ được chiếu sáng bởi các cửa kính lớn ở đầu hồi nhà và khu vệ sinh. Từ sảnh chính cũng có thể lên tầng hai bằng một cầu thang lớn hình chữ T rộng tới 3,2m. Tầng hai gồm phòng nghỉ giáo viên ở giữa và 12 lớp học được bố trí ở hai phía, các lớp học được bố trí ở một phía hành lang phía sau toà nhà và nhìn ra sân chơi. Tầng ba chỉ có ở khu trung tâm và có lẽ chỉ mang yếu tố thẩm mỹ cho mặt đứng chứ không có chức năng gì đặt biệt.
Về mặt tổ hợp hình khối không gian kiến trúc thì toà nhà được bố cục theo phong cách đối xứng hoàn toàn với khối trung tâm cao ba tầng nổi bật ở giữa. Khối nhà này được trang trí khá cầu kỳ với lượng mở cửa nhỏ dần theo chiều cao, các cửa cũng được kết thúc theo qui luật cuốn vòm bán kính nhỏ dần theo phương đứng. Các họa tiết trang trí ở phần tiền sảnh, xung quanh các cửa và giữa các tầng được gia công rất tinh tế. Mái ngói bốn mặt tạo ra một đỉnh nhọn, được cấu tạo nhô ra khỏi mặt tường một khoảng cách khá lớn và được đỡ bởi một hệ công son gỗ hình tam giác mảnh. Tháp đồng hồ nhỏ cắt giữa mái mang tinh thần kiến trúc cổ điển tạo ra nét duyên dáng và độc đáo của công trình này. Hai khối phòng học bên cao hai tầng với mặt đứng được tạo thành bởi các cửa sổ phòng học kết thúc theo chiều ngang ở tầng một và cuốn vòm ở tầng hai. Các hoạ tiết quanh cửa được bố trí khá cầu kỳ và thống nhất với khối trung tâm. Mái ngói cũng được đưa ra khỏi mặt tường một khoảng cảnh lớn và được đỡ bởi hệ công son kép. Đầu hồi nhà được kết thúc bởi hệ thống cửa lấy sáng cho cầu thang theo kiểu giật cấp khá độc đáo.
Trường Nữ học Pháp - Hình vẽ: Phạm Duy Tùng
Đối xứng qua trục chính của nhà học là ngôi nhà kiểu biệt thự hai tầng giống nhau hoàn toàn với cấu trúc hành lang giữa rộng 1,8m, hai bên là các phòng làm việc, giao thông theo chiều đứng được đảm nhiệm bởi một cầu thang bố trí phía đầu hồi nhà. Để hài hoà với nhà học chính, kiến trúc của hai biệt thự này cũng có một khối nhô lên ở giữa, tiền sảnh nhô ra tạo thành một hiên nhỏ, tường và cửa được trang trí theo cùng mẫu hình với nhà chính, mái ngói vươn ra khỏi tường và được đỡ bởi hệ công son gỗ đặc biệt cầu kỳ ở khối giữa. Nét duyên dáng riêng của hai biệt thự này là có nhiều ban công trang trí bằng hệ con tiện nhô ra ở cả bốn phía.
Với tỷ lệ hình khối độc đáo, phương cách tổ chức mặt đứng hài hoà, các hoạ tiết trang trí có tính thẩm mỹ cao, trường Nữ học Pháp có thể được coi là trường học đẹp nhất ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc này (Ảnh 3).
Trường Lycée du Protectorat còn gọi là trường Bưởi (trường PTTH Chu Văn An ngày nay) bắt đầu hoàn thành từ năm 1908, ban đầu chỉ là trường Collège du Protectorat (Tương đương trường trung học cơ sở hiện nay) và được nâng cấp thành trường Lycée (Trung học phổ thông) vào năm 1931.
Ảnh 4: Trường Collège du Protectorat
Khác với các trường trung học xây dành cho học sinh người Pháp được xây dựng theo kiểu tập trung ở các khu vực trung tâm thành phố, trường dành cho học sinh người Việt được xây dựng theo kiểu phân tán ở khu vực ngoại vi Hà Nội lúc bấy giờ thuộc địa phận làng Thụy Khuê (phố Thụy Khuê ngày nay). Trong khuôn viên nhà trường có tới 3 nhà học, 2 nhà thí nghiệm và xưởng trường, một nhà điều hành và một biệt thự cho giám đốc trường (*) được xây dựng trong các thời kỳ khác nhau.
Hai nhà học xây dựng những năm đầu thế kỷ 20 là các tòa nhà 3 tầng, hành lang bên rộng 2,5m, hành lang tầng 1 kiểu cuốn vòm mở ra bên ngoài, hành lang tầng 2 và 3 có hệ thống cửa sổ hành lang hai lớp kính - chớp. Liên hệ giữa các tầng là một cầu thang trung tâm rộng 1,2m, hai phía bố trí các phòng học, đầu hồi là khu vệ sinh. Hình khối không gian của hai tòa nhà cũng rất đơn giản, các cuốn vòm ở tầng 1 và các hệ thống cửa sổ tầng 2 và 3 gần giống nhau hoàn toàn trên bộ chiều dài nhà, không có bất kỳ sự nhấn mạnh nào ở khu vực trung tâm. Hình thức trang trí đơn giản, mái ngói với hệ thống sê nô thoát nước bằng tôn làm cho hình thức các tòa nhà này tương đối nhàm chán.
Tòa nhà học thứ ba cũng cao 3 tầng xây dựng khoảng những năm 1920, phong cách bố trí mặt bằng giống như hai tòa đã xây trước đó. Tuy nhiên trong việc tổ hợp hình khối kiến trúc và trang trí thì ở tòa nhà này đã có sự nâng cấp. Bên cạnh các cuốn vòm ở tầng 1 và hệ thống cửa sổ các tầng trên đã được thêm vào một số yếu tố trang trí trang nhã hơn, đặc biệt là hệ thống sê nô bê tông cốt thép mở rộng phía dưới lớp mái ngói được đỡ bởi hàng công son uốn cong làm cho tòa nhà trở nên uy nghi hơn. Nhìn chung thì đây là kiến trúc có giá trị duy nhất trong ba tòa nhà học của trường.
Ảnh 5: Nhà điều hành trường Lycée du Protectorat
Hai nhà thí nghiệm và xưởng trường một tầng nằm đối diện với các nhà học qua sân trường, được xây dựng khoản đầu những năm 1920. Mặt nằng bố trí theo kiểu hành lang bên có cửa sổ rộng 2,0m, ở giữa là các phòng thí nghiệm rộng rãi, hai đầu bố trí các phòng chuẩn bị và kho dụng cụ. Mặc dù chỉ là công trình phụ trợ, có độ cao khiêm tốn so với nhà học nhưng hai nhà thí nghiệm lại được thiết kế khá đẹp. Hệ thống cửa sổ và cửa đi kiểu cuốn vòm với các chi tiết trang trí bằng gạch trần và đắp vữa khá bắt mắt. Đầu hồi xử lý kiểu giật cấp với hệ cửa sổ theo phương đứng. Mái đua ra khỏi tường khá rộng và được đỡ bởi hệ công xon gõ tiện dạng kép trang trí công phu.
Khối văn phòng nhà trường được bố trí trong một ngôi nhà hai tầng kiểu biệt thự hành lang giữa, hai phía là các phòng làm việc, cầu thang và khu vệ sinh bố trí ở đầu hồi. Hình khối kiến trúc ngôi nhà khá đẹp do kiểu bố trí mặt bằng giật cấp tạo ra các khối trên mặt đứng. Cửa sổ và cửa đi được kết thúc bởi các cuốn vòm kết hợp với các họa tiết trang trí đơn giản nhưng trang nhã. Mái ngói có độ dốc vừa phải với khối thang nhô cao tạo điểm nhấn cho ngôi nhà.
Có thể nói trường Lycée du Protectorat là một điển hình cho dạng trường học cấu trúc phân tán ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc. Hai tòa nhà học xây dựng giai đoạn đầu có chất lượng thẩm mỹ không cao, nhưng các khối nhà xây dựng sau đó thì khá đẹp. Sự kết hợp giữa các tòa nhà và khối cây xanh trong sân trường tạo ra một tổng thể kiến trúc hài hòa mang đậm chất “ học đường” mà các trường dành cho học sinh người Pháp không có được (Ảnh 4,5).
Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị (trường THPT Phan Đình Phùng ngày nay) thành lập năm 1923 là một trường học lớn thời bấy giờ, về tầm vóc có thể so sánh với trường Bưởi, trường Đồng Khánh (trường THCS Trưng Vương ngày nay) và đều là những trường dành cho học sinh người Việt.
Ảnh 6: Trường École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị
Trường nằm trên một khuôn viên rộng rãi được giới hạn bởi các phố Carnot (phố Phan Đình Phùng), Đỗ Hữu Vị (phố Cửa Bắc) và Grand Bouddha (Phố Quán Thánh). Nhà học chính là một tòa nhà ba tầng bố cục gần đăng đối. Mặt bằng các tầng bố trí như nhau theo kiểu hàng lang bên rộng 2,5m bao gồm cầu thang chính bằng gỗ rộng ở giữa, mỗi bên bố trí bốn lớp học, đầu hồi phía bên trái là khu vệ sinh, hồi phải bố trí thang phụ. Hình thức kiến trúc của tòa nhà gần giống với kiểu kiến trúc tòa nhà học xây những năm 1920 ở trường Bưởi nên cũng khá đẹp. Hàng lang tầng một được mở rộng ra sân trường bởi hành lang cuốn vòm trang trí khá cấu kỳ, hành lang các tầng 2 và 3 có cửa sổ hai lớp. Hình thức trang trí mặt đứng tương đối phong phú bao gồm các mô típ trang trí bằng vữa đắp kết hợp với cách trang trí bằng gạch trần phía trên cửa sổ tầng 3 kết hợp với hệ sê nô bê tông mở rộng tạo ra sự kết thúc rõ rệt của tòa nhà theo phương đứng. Nhà thí nghiệm và xưởng trường nằm vuông góc và được nối với nhà học bởi một hành lang cầu mái ngói. Đây là một ngôi nhà được cấu trúc khá độc đáo với hành lang bên rộng 2,0m quay vào sân trường có cửa sổ hai lớp, giữa hành lang và không gian bên trong chỉ được phân định tương đối bằng những cuốn vòm, mặt đứng quay ra phố Đỗ Hữu Vị được trang trí bằng hệ thống cửa sổ cao và các công xon gõ đỡ mái ngói khá đẹp nhưng nay đã xuống cấp trầm trọng.
Khối nhà văn phòng của trường được bố trí trong một biệt thự hai tầng quay ra phố Carnot. Đây thực chất là một nhà làm việc kiểu hành lang giữa xây dựng theo phong cách biệt thực địa phương Pháp khá xinh xắn nhưng cũng đã bị xuống cấp nặng nề và hiện đang trong quá trình tu bổ.
Cũng giống như trường Bưởi, École Normale Supérieur Đỗ Hữu Vị là một ngôi trường xây dựng theo kiểu phân tán trong một khuôn viên cây xanh rất rộng. Tuy nhiên khuôn viên nhà trường ngày nay đã bị thu hẹp, lại có nhiều nhà học mới xây chen vào nên giá trị về mặt kiến trúc tổng thể bị giảm đi đáng kể (Ảnh 6).
Nhận xét
- Kiến trúc các công trình công cộng phong cách địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu được thể hiện ở thể loại công trình trường học. Ban đầu là các trường dành cho học sinh người Pháp nên chúng được xây dựng theo phong cách Địa phương Pháp nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm lý nhớ quê hương của học sinh. Sau đó thì các trường học xây dành cho học sinh người Việt cũng chịu ảnh hưởng của phong cách kiến trúc này.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội chủ yếu ảnh hướng bởi kiến trúc miền Bắc và Tây Bắc nước Pháp với hệ thống các họa tiết trang trí trên mặt đứng có sự kết hợp với kiến trúc miền Trung nước Pháp chủ yếu thông qua bộ mái.
- Kiến trúc trường học phong cách Địa phương Pháp có thể được chia thành hai nhóm: Nhóm các trường dành cho học sinh người Pháp như Grand Lyceé, Petit Lyceé, trường Nữ học Pháp mang tính hợp khối cao, nhà học chính đồ sộ và được cấu tạo đầy đủ các bộ phận như chính sảnh, các phòng nghỉ giáo viên… Nhóm các trường dành cho học sinh người Việt như trường Bưởi, trường Đỗ Hữu Vị, trường Henri Russier được thiết kế theo kiểu phân tán với các khối nhà học và các thí nghiệm được thiết kế tương đối đơn giản, công năng không đầy đủ, nhưng lại được xây dựng trong những khuôn viên cây xanh rộng nên tạo ra được những tổng thể trường học mang tính “sư phạm” hơn.
Kết luận
- Các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp là một bộ phận không thể tách rời trong di sản kiến trúc Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc.
- Kiến trúc phong cách Địa phương Pháp ở Hà Nội mặc dù mang đặc tính của kiến trúc các vùng miền khác nhau của nước Pháp, xong khi được xây dựng trong môi trường cảnh quan Hà Nội đã có những biến đổi nhất định và góp phần quan trọng vào bộ mặt kiến trúc một số khu vực nội thành Hà Nội, đặc biệt là khu trung tâm quận Ba Đình, nơi có nhiều trường học được bảo quản và duy tu tương đối tốt.
- Do chưa được đánh giá một cách đầy đủ và thận trọng nên một số công trình đã bị phá bỏ một cách đáng tiếc như tòa nhà học trường Collège Henri Russier (trường PTCS Nguyễn Công Trứ ngày nay) trên phố Nguyễn Trường Tộ, hay bị thu hẹp diện tích, để xuống cấp một số nhà đã có và đưa vào những công trình xây dựng dạng nhái Pháp cổ, hoàn toàn xa lạ về mặt phong cách với công trình kiến trúc Địa phương Pháp chủ đạo làm giảm đáng kể giá trị không gian kiến trúc tổng như trường THPT Phan Đình Phùng trên phố Cửa Bắc.
- Việc cải tạo các công trình kiến trúc phong cách Địa phương Pháp cho phù hợp với điều kiện sử dụng mới là cần thiết, xong khi đặt ra phương án cải tạo, các kiến trúc sư cần nắm vững đặc tính cơ bản của phong cách kiến trúc này để tránh việc phá vỡ không gian tổng thể hoặc đặc tính kiến trúc của những công trình này.
- CHÚ THÍCH
- Ảnh trong bài : KTS Trần Quốc Bảo
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đặng Thái Hoàng: Kiến trúc Hà Nội thế kỷ XIX – XX. NXB Hà Nội, 1995
- F.Teronobu, Phạm Đình Việt và cộng sự: Bảo tồn di sản kiến trúc Hà Nội. NXB Xây dựng, 1997
- Hữu Ngọc, L. Borton: Kiến trúc Pháp ở Hà Nội. NXB Thế giới
- Nguyễn Đình Toàn: Những nhân tố tự nhiên và truyền thống văn hoá bản địa trong kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ, 1997
- Trần Hùng, Nguyễn Quốc Thông: Thăng Long – Hà Nội, mười thế kỷ đô thị hoá. NXB Xây dựng, 2004
- Trần Huy Liệu: Lịch sử thủ đô Hà Nội. NXB Hà Nội, 2000.
Tiếng Pháp
- C. Pédelahore : Hanoi, le miroir de l’architecture indochinoise. Grase, 1982
- C. Pédelahore : Les éléments constitutifs de la ville de Hanoi. Grase, 1982
- L. G. Pineau : Urbanisme en Indochine. Hanoi, 1943
ThS.KTS Trần Quốc Bảo
Website : căn hộ hà đô quận 10
ReplyDeleteWebsite : dự án monada khang điền
Website : dự án jamila khang điền