Wednesday, April 25, 2012

Tản mạn chuyện Xây dựng(88)

Quy hoạch Sài Gòn trước 1975 dưới ảnh hưởng của Hoa Kỳ

Từ giữa thập niên 60, chính phủ Hoa Kỳ thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế USAID đã hỗ trợ kỹ thuật cho phía miền Nam Việt Nam về quy hoạch đô thị. Kể từ thời gian này, rất nhiều các đồ án quy hoạch và nghiên cứu về đô thị quy mô và có chất lượng tại miền Nam được thực hiện.  Trong bài viết này, tôi giới thiệu sơ bộ cách tiếp cận của một số đồ án này mà không đi sâu về các đề xuất quy hoạch của từng đồ án – đây sẽ là chủ đề cho các bài giới thiệu sau. 

Bản đồ Sài Gòn và vùng phụ cận vào thập niên 60. 

Điển hình là hai đồ án quy hoạch do hai công ty rất có tên tuổi trên thế giới lúc đó thực hiện: Quy hoạch chung thành phố Sài Gòn do công ty Doxiadis Associates – Consultants on Development and Ekistics[i] (Hy Lạp) lập năm 1965 và Quy hoạch phát triển Thủ Thiêm do công ty Wurster, Bernardi and Emmons[ii] (Hoa Kỳ) chủ trì lập năm 1972 thực hiện. Bên cạnh đó, Frank Pavick và James Bogle lần lượt thực hiện những báo cáo chi tiết về hoạt động quy hoạch đô thị ở miền Nam và những vấn đề của thành phố Sài Gòn. Cũng tác giả Frank Pavich sau đó còn thực hiện Khảo sát sử dụng đất tại Vùng đô thị Sài Gòn cho Tổng Nha Kiến thiết và Thiết kế Đô thị[iii]. Những tài liệu này không chỉ cung cấp những thông tin hữu ích về một phần lịch sử phát triẻn của thành phố cũng như lĩnh vực quy hoạch tại miền Nam, chúng còn cung cấp một mô hình thực hiện quy hoạch hoàn chỉnh trong điều kiện kinh tế thị trường và dựa vào phân tích khoa học hơn là các yếu tố thị giác đơn thuần – những vấn đề mà ngành quy hoạch Việt Nam đương đại, vốn xuất thân kiến trúc và trong điều kiện kinh tế chỉ huy, đang rất bối rối.
Các đồ án quy hoạch nêu trên mặc dù nghiên cứu rất kỹ lưỡng không chỉ về kiến trúc, khí hậu, đất đai mà còn cả nhu cầu giao thông giữa các khu vực và kinh tế/tài chính. Các hồ sơ quy hoạch thường kết thúc với phần đưa ra giải pháp triển khai, tài chính dự án và cả đề xuất rất cụ thể về chính sách cũng như luôn kèm theo thiết kế chi tiết một dự án thí điểm.
Đà phát-triển trong quá khứ, từ thành-phố cổ, thường hướng theo phía Bắc dọc theo những giải phù sa cổ. Kế-hoạch phát-triển tương lai cũng sẽ theo đường hướng nầy, và bất cứ một kế-hoạch thực-tế nào nhắm hướng dẫn sự phát-triển Thủ đô Sàigon cũng phải nhận thức ro những yếu-tố nầy” – Đề xuất về hướng phát triển cho Sài Gòn trong Đồ án Quy hoạch bán đảo Thủ Thiêm năm 1972.

Nghiên cứu các hướng phát triển của Sài Gòn theo trình tự thời gian trong hồ sơ của Bogle (c).


Biểu đồ về giá đất cho phép theo tỷ lệ sử dụng đất và chi phí san nền trong hồ sơ của DA (a).


Dự báo năng lực tài chính địa phương cho đầu tư vào nhà ở giai đoạn 1965 - 2000 tại vùng Sài Gòn trong hồ sơ của Dioxiadis Associates (a). 


Những đồ án hoàn chỉnh và sâu sắc

Hồ sơ đồ sộ của Dioxiadis Associates (a) giống một nghiên cứu tổng thể quy mô về khí hậu, đất đai, địa hình – địa mạo, dân số, nhà ở và năng lực tài chính không chỉ của Sài Gòn mà cả miền Nam lúc đó hơn là một đồ án quy hoạch đơn thuần. Chương trình đồ sộ của Đồ án thể hiện qua 8 phần:
  • Phần I: Chương trình phát triển cho vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong vòng 30 năm với liệt kê chi tiết nhu cầu phát triển và tài nguyên cần thiết để thỏa mãn nhu cầu này. 
  • Phần II: Đề xuất tổ chức hành chính cần thiết đề triển khai chương trình trên bao gồm cơ chế hành chính của chính phủ, sự tham gia của các thể chế tư nhân, tổ chức và ngân hàng. 
  • Phần III: Một dàn ý kế hoạch để hướng dẫn sự phát triển của vùng đô thị Sài Gòn – Chợ Lớn trong đó có định hình nội dung của quy hoạch, của các nghiên cứu cần thiết thực hiện và cách thực hiện chúng, xác định những điều kiện cho phép triển khai thực hiện ngay lập tức tại một số khu vực trước khi quy hoạch được lập. 
  • Phần IV: Nghiên cứu so sánh các loại hình nhà ở phù hợp với khí hậu Việt Nam. 
  • Phần V: Nghiên cứu so sánh tính chất các loại đất đai trong vùng (khô ráo, bán ngập, cao, thấp, v.v…) và chi tiết về giá trị và loại hình phát triển phù hợp cho từng loại. 
  • Phần VI: Mô tả chi tiết và đề xuất về các loại vật liệu địa phương và nhập khẩu cũng như nền công nghiệp vật liệu tại địa phương. 
  • Phần VII: Mô tả về nguồn nhân lực trong nước để lập và thực hiện chương trình và đề xuất về đào tạo nhân lực (công nhân xây dựng, thợ mộc, nhân viên khảo sát, họa viên, kiến trúc, kỹ sư, các nhà quy hoạch, v.v…). 
  • Phần VIII: Quy hoạch tổng thể một dự án thí điểm thử nghiệm cho khoảng 10,000 ngôi nhà phù hợp với môi trường Việt Nam. Đề xuất quy hoạch chi tiết cho một khu dân cư đầu tiên với khoảng 1000 căn nhà cho dự án trên. Dự án này sẽ giúp cung câp thông tin về các vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai chương trình phát triển này cũng như đào tạo nhân lực và đề trình bày những gì là khả thi. 

Bản đồ minh họa quy hoạch Thủ Thiêm của WBE năm 1972 (b). 

Đề xuất về hệ thống giao thông vùng và kết nối hai bờ sông Sài Gòn trong đồ án Thủ Thiêm của WBE năm 1972 (b).

Đồ án Thủ Thiêm năm 1972 là một ví dụ khác. Khẳng định sự thất bại của đồ án quy hoạch trước (ví dụ: Đồ án Thủ Thiêm năm 1968) là do “dựa trên việc sưu tầm thiếu sót vào những đặc tính thể chất của địa điểm và vô số các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc phát triển”[iv], đồ án Thủ Thiêm năm 1972 bao gồm các phần Sưu-khảo (nghiên cứu) sau (a):
  • Thiết kế thể chất (quy hoạch vật thể): thu thập dự liệu về dân số và đặc điểm đất đai của vùng Sài Gòn (SMA). Xu hướng phát triển được so sánh với các yếu tố vật thể mà sẽ ảnh hướng việc phát triển SMA trong những thập niên tới. 
  • Kỹ thuật: địa chất được nghiên cứu để tìm phương pháp san nền tốt nhất cho khu vực thấp và ngập nước. Hệ thống kênh rạch được khảo sát và các dòng kênh chính được vẽ mặt cắt để nghiên cứu. 
  • Vận tải: nghiên cứu về lưu lượng giao thông cho hệ thống đường nội bộ của bán đảo[v]. Một phân tích về các giải pháp vượt sông Sài Gòn được chuẩn bị để đánh giá về phương pháp và chi phí. 
  • Kinh tế: giá trị đất đai và sử dụng đất được dự báo cho thời gian 30 năm tới và những giả thuyết về khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của bán đảo được đặt ra. Một phân tích phí tổn-lợi ích (cost-benefit analysis) cho từng phương pháp và một sơ đồ về dòng tiền (cash flow) đầu tư công cho bán đảo được thực hiện. Nguồn tài chính bên ngoài và năng lực của các thể chế tài chính địa phương được nghiên cứu. 
  • Những yếu tố khác: những chính sách và luật lệ của chính quyền được đánh giá về tác động của chúng đối với phát triển đô thị. 
Và như kết luận trong phần Sưu-khảo, những nghiên cứu này vượt khỏi phạm vi của bán đảo Thủ Thiêm và hữu ích đối với việc phát triển thành phố nói chung. Đồ án Thủ Thiêm năm 1972 thẳng thắn phê phán mô hình phát triển tuyến tính do Doxiadis đề xuất vì quá áp đặt và dồn lưu lượng giao thông theo tuyến vượt sông Sài Gòn xuyên bán đảo. Đồ án cũng phê phán mô hình đô thị vệ tinh[vi] vì đòi hỏi quá lớn vai trò của chính phủ trong hiện thực hóa quy hoạch. Đồ án đề xuất thành phố tiếp tục những gì thực tiễn đang phản ánh: phát triển dọc trục Đông-Bắc dọc theo mảng đất cao và ổn định.
Ba phần thú vị nhất của đồ án là những thảo luận về việc kết nối hai bờ sông Sài Gòn, phần về tài chính và phần đề xuất chính sách. Dựa trên những nghiên cứu về giao thông và giá trị đất đai, đồ án yêu cầu thành phố sớm hoàn thành tuyến đường vành đai về phía Nam để giảm lưu lượng giao thông xuyên qua trung tâm và kết nối vơi sân bay tương lai[vii], di dời Tân Cảng và Xưởng đóng tàu Hải Quân (Ba Son) để xây cầu thấp kết nối trực tiếp đại lộ Hàm Nghi và đường Nguyễn Bỉnh Khiêm sang Thủ Thiêm[viii]. Cuối cùng, trong nhiều chính sách được đề xuất, nổi bật là việc đề nghị đưa vào hệ thống thuế dựa vào giá trị bất động sản (assessment tax), mở rộng địa giới đô thị để bao gồm vùng nông thôn xung quanh và 20% đất ở triển khai bởi Cơ quan Phát triển Điền địa[ix] sẽ là nhà cho người thu nhập thấp thuê và trợ giá 50%.

Quang cảnh trên đường Tự Do, nay là đường Đồng Khởi, vào năm 1961. Ảnh tạp chí Life.


Chiến tranh xảy ra tại vùng nông thôn khiến dân số Sài Gòn tăng đột biến. Nhà ổ chuột ven kênh là kết quả của quá trình này khi lượng dân nhập cư từ nông thôn quá lớn. 


Những lực cản của quy hoạch

Các đồ án và nghiên cứu này tất nhiên không nhất thiết phản ánh chất lượng thực sự của công tác quy hoạch và nghiên cứu đô thị tại miền Nam lúc đó vốn vẫn bị ảnh hưởng của trường phái Beaux Arts do người Pháp để lại (b). Rất khó có thể đánh giá được mức độ tác động của các đồ án và nghiên cứu này vào hoạt động quy hoạch tại miền Nam. Điều kiện chiến tranh và ngân sách eo hẹp không cho phép triển khai những đồ án này. Ngoài ra, theo đánh giá của Seltz vào năm 1970, quá trình chuyển giao công nghệ không thực sự diễn ra do nhân lực chuyên môn yếu kém trong các cơ quan của chính phủ và nguồn tiền tài trợ dồi dào khiến tư vấn nước ngoài có khuynh hướng sử dụng nhân lực ngoại quốc hơn là địa phương (a). Các nghiên cứu và bài báo về hoạt động quy hoạch ở miền Nam cũng lột tả tương đối những vấn đề của đô thị và xã hội lúc đó. Rất nhiều những vấn đề nêu ra nay có thể quan sát thấy trong xã hội và hoạt động quy hoạch đương đại. Ví dụ, Michael Seltz (a), một nhà quy hoạch làm việc trong một nhóm cố vấn cho thị trường Sài Gòn rằng 3 yếu tố tác động tiêu cực đến quy hoạch (ngoài chiến tranh) là: 1) thiếu thông tin; 2) nạn tham nhũng khiến việc hợp tác đa ngành không thể diễn ra; 3) chính quyền địa phương yếu và không có vai trò độc lập với chính quyền trung ương; và 4) thiếu nguồn tài chính.


Bản đồ tổng hợp tính phù hợp của đất đai cho phát triển đô thị trong đồ án quy hoạch vùng Sài Gòn năm 1974 (e).

Phương án Lưỡng trục thiên Nam - một trong 3 phương án và là phương án giống quy hoạch hiện nay nhất trong đồ án quy hoạch vùng Sài Gòn năm 1974 (e). 


Bước đi dài và cuối cùng của quy hoạch tại miền Nam trước 1975? 

Tuy nhiên, ở một mặt khác, tài liệu quy hoạch tổng thể cuối cùng cho Sài Gòn mà tôi có: Kế hoạch phát triển vật thể vùng thủ đô năm 1974 được ghi là thực hiện bởi Nha Thiết kế Thị thôn thuộc Bộ Công chánh và Giao thông là một đồ án rất khoa học và thể hiện sự tiếp thu các đồ án trước đó do người nước ngoài thực hiện. Mở đầu phần I: Phúc trình tiên khởi, bản kế hoạch này xác định:
Phúc-trình này sẽ diễn-tả lần lượt các nhu-cầu được ước-toán, khả năng cung-ứng của đất-đai và một số giải-pháp đề-nghị.
Đồ án ứng dụng phương pháp chồng lớp bản đồ bằng công nghệ thông tin để xác định sử dụng đất phù hợp và thậm chí cả mô hình giao thông cho mỗi khu vực trong toàn vùng đô thị Sài Gòn (bao gồm cả Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Nhơn Trạch) và đưa ra quy hoạch cấu trúc có tính định hướng. Trong chương 6: Kết-luận và Đề-nghị, phương pháp được tổng kết vắn tắt như sau:
… các khu vực đều được phân thành ô vuông, mỗi ô có diện tích 1 cây số vuông. Đặc-tính về đất-đai của mỗi ô đều được phân-tích và lượng-giá trên một họa-đồ, miêu-tả bằng các màu sắc đậm lợt ấn-định tùy theo mức độ khả-thi của khu vực. Tất cả các loại họa-đồ này được xếp chồng lên nhau để xác-định họa-đồ tổng-hợp các loại đất-đai khả-dụng. 
[…] Đặc-tính thiên-nhiên và nhân-tạo của mỗi ô vuông được ghi nhận bằng các mã-số và ký-hiệu, rồi sẽ tùy theo mật-độ quy-định tại mỗi ô vuông, máy tính điện-tử sẽ ước-toán ra số chi-phí thị-tứ-hóa cho mỗi khu-vực và cho toàn-thể giải-pháp. 
[…] Máy tính điện-tử cũng được xử-dụng để giải các mô-thức lưu-thông (một tập-hợp công-thức toán-học phức tạp) và ấn-định các ma-trận di-chuyển (interchange matrix) rồi từ đó suy ra sườn đạo-lộ. 
Những phương pháp trình bày ở đây: phân tích sử dụng đất bằng chồng lớp bản đồ (land use suitability analysis) và ấn định hành trình bằng ma trận (trip assignment) cho mỗi khu vực giao thông trong thành phố để từ đó suy ra lưu lượng vẫn là những phương pháp cơ bản được giảng dạy trong các trường quy hoạch tại Hoa Kỳ ngày hôm nay như tôi đang được học. Những phương pháp này tuy nhiên ít được biết tới trong giới quy hoạch đô thị và không được giảng dạy tại Việt Nam ngày hôm nay.
Nếu đây quả thực là một đồ án do người Việt Nam thực hiện, nỗ lực quy hoạch này xứng đáng được tôn vinh và ghi nhận trong lịch sử như là sự chuyển biến từ quy hoạch mang tính thiết kế kiến trúc sang một bộ môn khoa học tổng hợp về phát triển vùng lãnh thổ. Đáng tiếc là di sản này sau đó không được tiếp thu và chìm vào quên lãng sau 1975[x] để tới hôm nay thế hệ các nhà quy hoạch được đào tạo trong nhà trường Xã hội Chủ nghĩa khá bối rối trước nền kinh tế thị trường nơi mà quyết định thiết kế, xây dựng và sử dụng công trình và khu đô thị không còn thuộc độc quyền của nhà nước (và do đó kiến trúc không còn vai trò quan trọng trong quy hoạch như trước).
Quy hoạch sư Nguyễn Đỗ Dũng (Blog Đô thị)
Chú thích:
[i] Doxiadis Associates (DA) đứng đầu bởi kiến trúc sư người Hy Lạp Constantinos Doxiadis là một trong những công ty tư vấn quy hoạch đô thị có ảnh hưởng nhất thế giới vào thập niên 1960. Một trong những công trình quan trọng nhất được hiện thức hóa của DA là thủ đô Islamabad của Pakistan.
[ii] Wurster, Bernardi and Emmons (WBE) là công ty kiến trúc có trụ sở chính ở San Francisco (Hòa Kỳ). Công ty được lập ra bởi William Wilson Wurster, người sáng lập Trường Thiết kế Môi trường tại Đại học Californai – Berkely, và sau đó có sự tham gia của hai đối tác trẻ là Bernardi và Emmons. Donn Emmons là người chịu trách nhiệm về đồ án Thủ Thiêm 1972.
[iii] Thiết kế đô thị (urban design) mà chúng ta hiểu ngày nay là một lĩnh vực mới phát triển vào khoảng giữa thập niên 60 nhằm lấp khoảng trống giữa kiến trúc và quy hoạch. Trong trường hợp tên gọi của cơ quan này, cụm từ thiết kế đô thị chỉ quy hoạch đô thị và do đó được dịch ra tiếng Anh vào thời điểm đó trong các tài liệu của USAID là urban planning.
[iv] Bản dịch tiếng Việt của đồ án có nhiều lỗi (ngoài yếu tố ngôn ngữ tại miền Nam vào thời điểm đó), tuy nhiên để phản ánh không khí của đồ án, tôi trích nguyên văn và chú thích thêm để độc giả hiểu.
[v] Tôi chưa thấy đồ án quy hoạch chung nào ở Việt Nam ngày nay thực hiện nghiên cứu lưu lượng giao thông. Nếu quý vị nào biết xin thông tin.
[vi] Các quy hoạch chung ngày nay, từ Hà Nội tới Tp HCM vẫn theo đuổi mô hình này mà không đề cập tới những mặt trái của nó.
[vii] Tuyến đường này chính là đại lộ Nguyễn Văn Linh hôm nay và sân bay quốc tế Long Thành trong tương lai.
[viii] Riêng đề tài kết nối hai bên bờ sông Sài Gòn là một câu chuyện thú vị mà tôi sẽ kể vào một dịp khác.
[ix] Cơ quan triển khai dự án phía chính quyền.
[x] Giáo sư Trương Quang Thao và sau đó một số sinh viên cao học và nghiên cứu sinh của ông có nghiên cứu các đồ án này tại trường Đại học Kiến trúc TP HCM. Nhờ giáo sư Thao mà tôi cũng lần đầu tiên biết đến các tài liệu này vào năm 2009. Các tài liệu để viết bài này là tư liệu lưu trữ của các thư viện đại học tại Mỹ.
Thành phố Lisbon mang vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ bởi những cung điện cổ kính, những tòa lâu đài tráng lệ nghiêng nghiêng soi bóng bên dòng sông Tagus suốt hàng ngàn năm lịch sử.
Lisbon là thủ đô của của Bồ Đào Nha, thành phố nằm bên bờ Đại Tây Dương, xung quanh bốn bề đều giáp với biển. Chính vì thế mà không có gì làm lạ khi Lisbon còn được gọi với cái tên thành phố của nước.
Từ năm 1260, Lisbon trở thành thủ đô của Bồ Đào Nha. Năm 1755, toàn bộ thành phố hầu như bị chôn vùi vì trận động đất lịch sử, sau đó, trung tâm Lisbon được xây dựng lại theo kiểu bàn cờ với những ngôi nhà nhỏ xinh xắn.
Đến với Lisbon, du khách sẽ bị hút hồn bởi những tòa nhà bằng đá vôi màu trắng, những ngõ hẻm quanh co đầy vẻ bí ẩn. Không những thế, Lisbon còn có những thánh đường được xây theo lối kiến trúc Gothic, những tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ bên dòng sông Tagus hiền hòa. Và cả những bảo tàng đặc sắc khó có thể tìm thấy ở nơi nào khác trên thế giới cũng khiến bạn không thể quên được thành phố này.
Quảng trường Rossio
Một góc phố tại Lisbon.
Những ngôi nhà nhỏ xinh xắn nằm san sát bên nhau.
Thành phố nằm bên dòng sông Tagus thơ mộng.
Nhà thờ Igreja Santa Engracia nằm ở Alfama, khu phố cổ quyến rũ nhất và mang đậm nét phong cách Bồ Đào Nha.
Nhà hát quốc gia Dona Maria II nằm trong khu Rossio, một trong những quảng trường đẹp nhất Lisbon.
Những khuôn viên xanh bên trong thành phố Lisbon
Thành phố còn nổi tiếng với những tòa lâu đài nằm trên đỉnh núi.
Và bạn không thể bỏ qua lâu đài Sao Jorge cổ kính, tráng lệ nằm trên một vách núi trông ra biển.
Cửa vòm đặc trưng của kiến trúc Gothic.
Tường thành bao quanh lâu đài.
Ở Heidelberg, từng góc phố, từng con đường, từng ngôi nhà, lâu đài cổ hàng trăm tuổi,… đều in đậm dấu ấn lịch sử, gắn liền với đỉnh cao thi ca của thế giới.
Heidelberg là một thành phố lớn nằm cạnh sông Neckar ở Tây Nam của nước Đức. Nơi đây nổi tiếng với khung cảnh lãng mạn, với cây cầu cũ kỹ, cổ kính đã đi vào thơ ca của đại thi hào Goethe.
Vào đầu thế kỷ 19, thành phố Heidelberg đã từng là trung tâm của giới thi hào văn sĩ Đức. Có không biết bao nhiêu là bài thơ ca ngợi thành phố này. Vẻ đẹp cổ kính, những công trình kiến trúc đã trở thành niềm tự hào của người dân nơi đây từ xưa đến nay.
Lâu đài cổ kính
Nhà thờ nhỏ linh thiêng.
Suốt 4 mùa, dù mưa hay nắng, dù mùa xuân rực rỡ hay mùa đông ngập tràn tuyết trắng, những công trình kiến trúc nơi đây vẫn luôn mang vẻ đẹp kỳ vĩ nhuốm màu thời gian.
Phố cổ...
Một góc lâu đài đổ nát hàng trăm năm tuổi.
Lâu đài lung linh khi màn đêm buông xuống.
Khi đặt chân đến vùng đất bình yên, sâu lắng này, được chạm tay vào bức tường lâu đài cũ, ngồi trên cây cầu cũ bắc qua sông Neckar hay theo người dân nơi đây cầu nguyện nơi thánh đường linh thiêng, tuyệt đẹp của nhà thờ Heiliggeistkirche, bạn sẽ ngỡ như mình đang chạm tay vào lịch sử.
Thành phố lãng mạn trong mùa thu vàng...
...Và tuyệt đẹp trong tuyết trắng.
Và để tìm lại một chút gì về cuộc sống của người dân Đức xưa, bạn đừng quên dạo bộ qua khu phố cổ trầm mặc còn vẹn nguyên dấu tích xưa.
Cung điện Kremlin - biểu tượng của kiến trúc Nga, nơi mà từ những ô cửa sổ nhỏ cho đến những mái vòm đều xứng tầm kiệt tác nghệ thuật kiến trúc nhân loại.
Điện Kremlin lung linh pháo hoa đón năm mới.
Kremlin nằm ở vị trí trung tâm của thành phố Moscow, hiện là nơi làm việc của các cơ quan tối cao nhất của chính quyền Nga. Năm 1156, công trình này được xây dựng như một tổ hợp pháo đài nhìn ra Quảng trường Đỏ gồm các cung điện, nhà thờ, tháp...
Phía trong khuôn viên của Điện Kremlin có rất nhiều toà Đại giáo đường và những giá chắn. Còn khi bước chân vào bên trong Viện Bảo tàng của Hoàng gia, bạn sẽ choáng ngợp trước những cỗ xe ngựa lớn bằng vàng, những bộ quần áo rát kim cương và muôn vàn tạo vật làm bằng vàng và đá quý của Đế chế Nga trước đây.
Khi vào bên trong cung điện, bạn còn có thể nhìn thấy chiếc "chuông vua" cao bằng một toà nhà 3-4 tầng. Chuông vua chính là kỳ quan hoàn hảo hiếm hoi còn sót lại của nghệ thuật đúc đồng từ thế kỷ 16-17. Bên cạnh "chuông vua" còn có một "tháp chuông" với khoảng vài chục quả chuông lớn nhỏ đang ngân vang hàng ngày hàng giờ như bao thế kỷ trước đây. Có rất nhiều "cổ pháo" được đúc với những hoa văn tinh vi, bởi vì Kremlin vốn là một toà thành vững chắc cho nên vẫn còn những "pháo đài", đài quan sát, giếng hút nước ngay trong Thành.
Mỗi chi tiết dù nhỏ nhất như hoa văn trên cánh cửa, nét chạm khắc trên tường hay cách phối màu của các bức tranh trong điện Kremlin đều là một kiệt tác nghệ thuật hoàn hảo. Và những chi tiết ấy cũng góp phần chứng minh kiến trúc Nga đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc thế giới.
Từng câu chuyện lịch sử qua các thời kỳ ở Nga được tái hiện sống động qua từng góc nhỏ của cung điện vàng son này.
Điện Kremlin bên dòng Volga thơ mộng.
Okinawa không chỉ nổi tiếng với những sản phẩm á nhiệt đới và những bãi biển tuyệt đẹp làm say đắm lòng người, mà nơi đây còn nổi tiếng với những kiến trúc độc đáo, trong đó có tòa lâu đài Shuri đã được xếp là Di sản thế giới.
Lâu đài Shuri được xây dựng khoảng vào thế kỉ thứ 12. Sau vài trăm năm nội chiến giữa các lãnh chúa, các hòn đảo ở Okinawa đã được thống nhất lại thành Vương quốc Ryukyus vào đầu thế kỉ 15. Trong suốt 450 năm sau, lâu đài Shuri là cung điện của nhà vua Ryukyus. Vương quốc Ryukyus nằm ở giữa Nhật bản và Trung quốc, nên Ryukyus có nhiều nét khác với những vùng ở đất liền Nhật bản, đặc biệt về mặt kiến trúc.
Tòa lâu đài Shuri cũng khác hẳn với những tòa lâu đài thường thấy ở trong Nhật. Sở dĩ Ryukyus có nhiều quan hệ với Trung quốc từ thế kỉ 14, nên kiến trúc của tòa lâu đài Shuri mang đậm nét kiến trúc của Trung Quốc. Tuy nhiên từ thế kỉ 18, Ryukyus có nhiều quan hệ với Nhật bản, với Hàn Quốc, chính vì vậy những tòa kiến trúc vào thời gian này có nhiều nét khác hơn với Shuri.
Tòa lâu đài được xây dựng trên một diên tích khoảng 6 vạn mét vuông, được xây dựng bằng những bức tường đá cứng và có nhiều công trình xây dựng đã được xếp hạng tài sản quốc gia, gồm Seiden (chính điện), Shureimon (cổng thứ hai) vươn lên hùng vĩ trên bầu trời xanh. Tuy nhiên trong thời kì chiến tranh, tất cả những tòa lâu đài này, gồm cả những bức tường đá cũng đều bị phá hủy.
Ngày nay, Kankai mon (cổng chính) và Shureimon (cổng thứ hai) đã được phục chế lại và khu vực này trở thành công viên lịch sử. Shureimon (cổng thứ hai) được biết đến là kiến trúc độc đáo duy nhất chỉ có ở Okinawa và nhiều lần đã được coi là biểu tượng của Okinawa. Đây là cổng thứ hai nằm trên con đường chạy vào tòa lâu đài. Cổng chính và cổng thứ nhất thì nằm ở vị trí thấp hơn, có hình dáng và cỡ giống như Shureimon. Hai cổng đó còn được gọi là Ueno Torii (cổng trên) và Shitano Torii (cổng dưới).


Thành cổ Nijo là nơi lưu lại tinh hoa kiến trúc cũng như những nét đẹp văn hóa truyền thống của người dân xứ sở hoa anh đào xưa. 
Khu thành quách rộng lớn Nijo nằm ở Kyoto, Nhật Bản. Thành cổ này bao gồm hai vòng tường thành kiên cố, lâu đài Ninomaru, lâu đài Honmaru và rất nhiều dinh thự, vườn cây hoa cảnh lộng lẫy khác.
Toàn bộ khu di tích thành cổ có diện tích 275.000 m2, trong đó 8.000 m2 là diện tích dành cho các dinh thự. Năm 1601, Tokugawa Ieyasu, người sáng lập của Mạc phủ Tokugawa đã ra lệnh cho tất cả các lãnh chúa phong kiến ở miền Tây Nhật Bản đóng góp xây dựng thành cổ Nijo. Và 25 năm sau (năm 1626) quần thể kiến trúc Nijo hoàn thành dưới thời cai trị của Tokugawa Iemitsu.
Nơi đây, in dấu những nét đẹp nghệ thuật kiến trúc Nhật Bản cổ xưa. Từng cánh cửa đến mái nhà, cột trụ đều được chạm trổ với hoa văn tinh xảo, tỉ mẩn. Khi bước vào không gian thành cổ, bạn còn có thể cảm nhận được không gian sống, sinh hoạt kín đáo, an toàn và có một chút “cầu kỳ” của người dân xứ sở hoa anh đào xưa.
Cánh cửa cũng được chạm khắc tỉ mẩn.
Hoa văn trên trần các dinh thự
Trong khu thành cổ rộng lớn, vườn Seiryu-en là phần mới nhất. Khu vườn được xây dựng năm 1965 tại phần phía Bắc của thành. Việc xây thêm khu vườn đánh dấu thời điểm thành cổ bắt đầu trở thành khu du lịch. Nơi đây còn là địa điểm tổ chức các sự kiện văn hóa truyền thống Nhật Bản. Vườn Seiryu-en được tạo nên bởi hơn 1.000 viên đá được xếp đặt cẩn thận và tại không gian xanh mát này có hai ngôi nhà nhỏ dành cho những du khách muốn thưởng thức trà đạo Nhật Bản.
Ngày nay, thành cổ trở thành điểm đến thu hút du khách bốn phương - những người muốn khám phá tìm về với nét đẹp kiến trúc, văn hóa và đời sống cổ xưa Nhật Bản.
Lâu đài Palais Ideal nổi tiếng là một trong những công trình kỳ dị nhất thế giới được làm từ hàng triệu viên đá vôi với sự pha trộn giữa kiến trúc châu Âu Trung cổ và Hồi giáo.
Joseph Ferdinand Cheval (1836 - 1924) cùng vợ đã xây lâu đài trong suốt 33 năm cùng vợ. Joseph vốn là người đưa thư, các viên đá có hình thù kích thước khác nhau đã được ông thu lượm từ khắp nơi trên những chặng đường đưa thư. Lúc sinh thời ông từng chia sẻ: Ông muốn xây dựng nên một cung điện huyền diệu như trong những giấc mơ.
Ban đầu ông xếp những viên đá thu thập được thành một cái ao. Sau đó ông cùng vợ xây nên một hang động với tâm nguyện công trình sẽ trở thành lăng mộ như của các Pharaon cho vợ chồng ông.
Niềm đam mê đã không dừng lại ở đó. Với trí tưởng tượng của mình, ông tiếp tục công việc gian khổ, xây một ngôi đền Hindu bên cạnh hang động dành riêng cho Đức Trinh Nữ Maria và ở giữa 2 công trình là tượng hình xác ướp Ai Cập. Bên cạnh ngôi đền là thư viện nhỏ cũng không kém phần kỳ quái.
Tất cả những sinh vật kỳ quái trên các bức tường hay các ngóc ngách nhỏ cho đến đồ trang trí đều được Joseph khéo léo sắp xếp tạo hình từ những viên đá vôi.
Ngày nay, lâu đài Palais Ideal nằm ở Valence, miền Nam nước Pháp trở thành địa điểm du lịch thú vị cho du khách khắp nơi trên thế giới và nơi đây cũng trở thành nơi tưởng niệm người “kiến trúc sư” vĩ đại đã viết nên huyền thoại bằng chính những viên đá bình thường được nhặt nhạnh trong suốt cuộc đời làm nghề đưa thư của mình.
Đền Karnak thờ thần Amun ở Luxor được coi là bảo tàng ngoài trời lớn nhất thế giới. Ngôi đền này không chỉ sánh ngang với đại kim tự tháp Giza về quy mô và sự hùng vĩ, mà còn là đỉnh cao của kiến trúc và mỹ thuật Ai cập cổ đại.
Quần thể di tích đền Karnak (thường gọi là Karnak), là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của những ngôi đền, những bức tượng khổng lồ, những sảnh thờ, những tòa tháp... Nhưng nổi tiếng nhất ở đây là Đền thờ của thần Amun, do vua Ramesses II xây dựng từ năm 1391 đến 1351.
Karnak nổi tiếng không chỉ nhờ những ngôi đền, hồ thiêng, mà còn nổi tiếng với một con đường đầy tượng nhân sư đầu cừu. Theo tín ngưỡng Ai Cập, nhân sư đầu cừu là biểu tượng của thần Amun, vị thần của sự thông thái và cũng là thần gió của Ai Cập.
Đền Karnak nằm phía đông của sông Nile, được xây dựng niên đại từ 1580 - 1160 năm trước Công nguyên. Đây là nơi thờ cúng chính các pharaon trong vòng gần 2.000 năm. Quần thể này do 30 vị pharaon nối tiếp nhau xây dựng. Mỗi vị vua đều tạo một dấu ấn riêng cho mình vào ngôi đền này bằng những cây cột, hoa văn và họa tiết khác nhau.
Một trong những bức tượng còn nguyên vẹn trong đền.
Bên cạnh đó, trong đền hiện còn lưu giữ hàng trăm cột đá cao 16m, đường kính rộng hơn 1m. Theo quan niệm của người Ai Cập cổ đại, cột đá là những cây hoa mọc lên từ đất. Do đó trên đỉnh những cột đá trong các ngôi đền cổ ta thường thấy chạm khắc các hình hoa văn mềm mại. Tường của đền được trang trí bằng các phù điêu miêu tả các pharaon dùng cung tên tiêu diệt cái ác cùng màu sắc sống động.
Mỗi cột trụ khắc dấu hình ảnh của những thời kỳ Pharaoh hưng thịnh khác nhau.
Sự hùng vĩ của kiến trúc cũng như không khí linh thiêng bao trùm toàn bộ không gian Karnak khiến những du khách đến đây luôn cảm thấy như đang bước vào cõi huyền bí, mọi bụi trần đều được bỏ lại bên ngoài cánh cửa ngôi đền..
Thành phố Amsterdam cổ kính chứa đựng trong mình hàng ngàn cây cầu, ngôi nhà cổ, lâu đài huyền bí và xinh đẹp…Tất cả các công trình đều tô đậm nét kiến trúc truyền thống Hà Lan.
Amsterdam nằm trên bờ vịnh IJ và sông Amstel và là thủ đô của Hà Lan. Thành phố được thành lập vào thế kỷ 12 từ một làng chài nhỏ bên bờ sông Amstel. Vì vậy, Amsterdam mang đầy đủ dáng dấp của một thành phố cổ châu Âu điển hình.
Đặt chân đến thành phố Amsterdam bí ẩn, du khách sẽ cảm thấy như đang lạc vào thế giới cổ tích với những chiếc cối xay gió và những ngôi nhà sàn, tuyệt đẹp. Ngồi trên những chiếc tàu xinh xắn, ngước nhìn những tòa lâu đày nguy nga, những cây cầu cổ cong cong bạn sẽ cảm thấy cảm giác bình yên len lỏi vào sâu tận tâm hồn.
Thành phố Amsterdam có rất nhiều kênh rạch. Hệ thống kênh rạch đan xen chằng chịt với vô số tàu thuyền, ca-nô lướt nhẹ nhàng, len lỏi giữa các dãy phố là đặc trưng của Amsterdam. Đứng ở bất kỳ một nơi nào ở thành phố du khách cũng có thể nhìn thấy kênh rạch và những chiếc cầu cổ bắc qua tạo cho nơi đây vẻ trầm lắng, dịu dàng.
Những công trình kiến trúc cổ bên sông.
Thành phố lung linh, huyền ảo trong đêm.
Amsterdam có tới 1.380 chiếc cầu, 6.800 ngôi nhà cổ được xây dựng từ thế kỷ 16, 17, 18 đã được xếp hạng di tích văn hóa. Những ngôi nhà cổ được xây bằng một trong hai loại gạch đỏ hoặc nâu. Chúng có từ 20 đến 30 chiếc cửa sổ và đặc biệt không có ban công.
Vô số cây cầu cổ bắc qua sông ở thành phố Amsterdam.
Một khu phố cổ ở Amsterdam
Và khi đến với Amsterdam, bạn đừng quên ghé thăm lâu đài Muiderslot. Lâu đài là một trong những công trình hiếm hoi mang đầy đủ đặc trưng kiến trúc cổ Hà Lan còn sót lại.
Lâu đài Muiderslot - Một trong những công trình kỳ vĩ nhất thế giới.
Lâu đài Muiderslot được nằm ở ngay cửa sông Vecht, cách trung tâm thành phố Amsterdam 15 km về phía Đông Nam. Được xây dựng lần đầu tiên năm 1280, sau nhiều năm trải qua nhiều thời kỳ, lâu đài Muiderslot đã có nhiều thay đổi. Tuy vậy, ngày này Muiderslot vẫn mang nhiều nét đặc trưng của kiến trúc Hà Lan cổ và nó được coi là một bảo tàng quý giá của quốc gia Hà Lan.
Chầm chậm dạo bộ bên bến cảng, ngắm nhìn những công trình kiến trúc cổ kính, tinh tế, bạn sẽ cảm nhận được phần nào đó những nét đẹp ẩn chứa sâu trong lòng thành phố cổ này. Và khi đó Hà Lan trong bạn không chỉ ấn tượng bởi xứ sở của hoa tuylip, cối xay gió mà những kiệt tác kiến trúc cổ sẽ thôi thúc bạn trở lại nơi đây để được cảm nhận, khám phá thêm…nhiều lần nữa.
Tòa lâu đài được làm từ nguyên vật liệu chính là đá trắng có tên là Trullihusen, nằm ở Apuglia – một ngôi làng nhỏ thuộc miền Nam nước Ý, cách Đan Mạch không xa.
Nhìn từ bên ngoài, lâu đài trông hết sức giản dị giống như một công trình kiến trúc thời Trung Cổ. Được xây dựng trên diện tích 300m2, tòa lâu đài thực sự đã làm tái sinh lối kiến trúc cổ. Dường như nét đẹp mộc mạc pha lẫn sự nguyên sơ đã biến ngôi nhà trở thành điểm nhấn giữa thiên nhiên rừng núi ngút ngàn, hoang dã nơi đây.
Nếu bên ngoài là sự hòa trộn giữa kiến trúc có phần cổ kính và thiên nhiên hoang vu thì bên trong là sự kết hợp nhịp nhàng, hài hòa giữa nét đẹp truyền thống được gợi nên bởi đá trắng và nội thất hiện đại. Chính nội thất hiện đại nhưng không quá cầu kỳ đã thổi hồn vào từng không gian “đá”, mang lại sự ấm áp, xóa tan cảm giác có phần hơi lạnh lẽo của lối kiến trúc tạo nên từ đá. Các ô cửa sổ được thiết kế độc đáo với những vòm cong như trong những lâu đài cổ mang lại sự huyền bí cho không gian nơi đây.
Với màu chủ đạo là trắng và đen, các nội thất dùng để bài trí đã làm tôn thêm nét đẹp của đá trắng và mang lại một phong cách riêng cho ngôi nhà. Tất cả đều gợi lên một không gian hết sức giản dị nhưng không kém phần sang trọng.
Phòng khách và phòng ăn được thiết kế rộng rãi và nối liền với không gian bên ngoài bằng cửa lớn, luôn sẵn sàng cho những kỳ nghỉ thú vị cuối tuần. Phòng ngủ được thiết kế kín đáo và ấm áp tạo nên không gian riêng tư đầy lãng mạn.
Mỗi gian phòng đều mang một dáng vẻ riêng, nhưng tất cả đều mang lại cho bạn cảm giác tò mò như đang trải qua một cuộc phiêu lưu. Và tất cả đều mang một nét đẹp bí ẩn, khơi gợi mong muốn được khám phá, được trải nghiệm.
Sẽ là một thiếu sót đối với một nơi dành cho những kỳ nghỉ cuối tuần vui vẻ, đó là bể bơi. Bể bơi của lâu đài được thiết kế hiện đại, hòa cùng thiên nhiên, tạo nên một khu nghỉ dưỡng hoàn hảo, ấn tượng.
Nếu một lần đến nước Ý xinh đẹp, lãng mạn và có cơ hội ghé qua lâu đài trắng mộc mạc này bạn sẽ không bao giờ quên công trình kiến trúc đặc biệt này. Giữa cái cũ và cái mới, giữa cổ điển và hiện đại, giữa tự nhiên và sáng tạo…tất cả được chắt lọc, được lựa chọn và kết hợp một cách tinh tế,
Thành phố nhỏ bé Carcassonne nổi tiếng khắp thế giới bởi bộ sưu tập những tòa lâu đài cổ kính, lộng lẫy, huyền bí như trong những câu chuyện cổ tích thần tiên.
Carcassonne là thành phố nhỏ nằm ở miền Tây Nam nước Pháp, cách Toulouse khoảng 90 km cách Pari khoảng 700 km. Trong thời kỳ trung cổ hỗn loạn nơi đây đã xây dựng nên những tòa lâu đài vững mạnh nổi tiếng thế giới. Lâu đài với những thành quách dài nằm kề nhau gắn liền với những ngọn tháp là bức tường thành kiên cố chống lại những người ngoại đạo
Ngày nay, tại châu Âu vẫn còn tồn tại nhiều tòa lâu đài, thành phố thời Trung cổ. Tuy nhiên, hiếm có một thành phố nào trên thế giới lại nằm gọn trong một pháo đài như Carcassonne. Trải qua nhiều cuộc chiến tranh thời đế chế La Mã và thời Trung cổ, nơi đây đã trở thành một vị trí hiểm yếu, là đường giao thông huyết mạch quan trọng.
Công trình ấn tượng nhất mà mỗi góc cạnh đều được chau chuốt kỹ lưỡng là thành Carcassonne. Thành Carcassonne được xây vào thế kỷ thứ XIII, nằm trên đồi cao và trải dài suốt 2,6 km. Thành được xây bằng đá hộc màu xám, bờ thành cao và dựng đứng. Bức tường mặt trên cùng của thành được xẻ dọc, tạo thành những ô vuông, tiện cho phòng ngự bằng cung nỏ.
Với một pháo đài vững chãi như vậy, thật không dễ dàng gì mà dùng sức mạnh của gươm giáo, cung tên, ngựa chiến tấn công. Thành Carcassonne từng được mệnh danh là "bất khả chiến bại" trong lịch sử.
Bên cạnh hệ thống tường thành bao quanh, một hệ thống tháp canh với những khối hình trụ dài, chóp nhọn cũng được xây dựng nơi đây. Toàn thành có tổng cộng 53 ngọn tháp.
Ngoài tính chất là một pháo đài phòng thủ, thành Carcassonne còn có một thành phố nhỏ bên trong với nhiều con phố hẹp lát đá, những giếng nước công cộng có thành đá cao, quảng trường, nhà cổ lợp ngói và rất nhiều những tòa lâu đài, nhà thờ cổ kính xinh đẹp.
Những công trình kiến trúc ở thành phố Carcassonne là nơi lưu giữ những nét đẹp nghệ thuật kiến trúc thời Trung cổ nguyên vẹn nhất, đầy đủ nhất.
Ngày nay, Carcassonne lãng mạn bên dòng sông Aude trở thành điểm đến du lịch lý tưởng và những pháo đài cổ nơi đây luôn là niềm tự hào của người dân nước Pháp.
Đến với thành phố Gothenburg, bạn không chỉ choáng ngợp trước hệ thống kiến trúc đồ sộ, cổ kính mà còn ấn tượng bởi sự thân thiện, mến khách của người dân nơi đây.
Gothenburg là một đô thị nằm phía Tây Thụy Điển. Trong danh sách những điểm du lịch hấp dẫn nhất của Thụy Điển, Gothenburg thường được nhắc tới đầu tiên bởi giá dịch vụ rẻ, sự thân thiện, mếm khách của người dân và mật độ điểm tham quan cao, nhất là các công trình kiến trúc đặc sắc.
Nằm ngay cửa ngõ của vùng biển Bắc, Gothenburg không chỉ có những loại hải sản ngon nhất thế giới mà còn có những công trình cầu cảng hiện đại nổi tiếng Châu Âu. Nơi đây mô%3ḅt thời từng là trung tâm của ngành công nghiê%3ḅp đóng tàu Thụy Điển. Ngày nay, tour du lịch hút khách ở Gothenburg là ngắm cảng biển sau đó đi thuyền dọc sông Gota, ngắm Gothenburg hai bên sông với những công trình được quy hoạch gọn gàng, xinh đẹp.
Gothenburg được thành lâ%3ḅp vào thế kỉ thứ 17, dưới thời vua Gustav II Adolf. Ở Gothenburg ngày nay vẫn còn những góc cổ kính, tạo cho người ta cảm tưởng đây vừa là một thành phố lớn cho các sự kiê%3ḅn âm nhạc, thể thao quốc tế, vừa là một thị trấn nhỏ yên bình.

Gothenburg nổi tiếng với nhiều công trình điêu khắc tuyệt mỹ:

Gothenburg có không ít danh lam thắng cảnh và hạng mục kiến trúc cho mô%3ḅt chương trình tham quan ngắn ngày. Sau khi thưởng lãm một vòng khu vực trung tâm, du khách không nên bỏ qua khu Haga với những ngôi nhà bằng gỗ được xây từ thế kỉ XIX.
Cũng giống như nhiều thành phố Thụy Điển khác, Gothenburg có mô%3ḅt pháo đài ngự trị trên đồi mang tên Skansen Kronan. Ngày nay kiến trúc này trở thành một bảo tàng quân sự độc đáo.
Lối kiến trúc ngay ngắn mà sáng tạo pha trộn cổ điển và hiện đại đã tạo nên sự mềm mại trong cái cứng rắn. Gothenburg thanh bình và an toàn đến độ có thể đi một mình ngoài đường giữa đêm khuya mà chắc chắn không có chuyện gì bất trắc xảy ra, không tệ nạn, cướp giật, cũng thật dễ để kiếm tìm sự giúp đỡ của bất kì ai trong những người xa lạ bạn gặp. Điều đó còn được hỗ trợ bởi hệ thống đèn điện điệu đà mà ngăn nấp của đô thị này. Thậm chí, những chiếc đèn đủ loại đã trở thành một vật deco kì thú cho không gian kiến trúc công cộng nơi đây.
Khi kết thúc hành trình thăm quan kiến trúc nơi đây hẳn bạn đã hiểu tại sao người dân Gothenburg lại rất tự hào và hăng say kể cho khách du lịch về những công trình kiến trúc trên mảnh đất của mình đến vậy.
Những công trình kiến trúc cổ kính, đậm chất huyền thoại đã mang đến cho thành phố Coventry (Anh Quốc) vẻ đẹp sâu lắng, dịu dàng.
Coventry là một thành phố lớn và đông đúc của nước Anh nằm cách London khoảng 150 km về phía Tây Bắc. Coventry được coi là một thành phố cổ do còn lưu lại được rất nhiều nét kiến trúc điển hình từ thế kỉ XV đan xen hài hòa với nhau, thậm chí dấu vết kiến trúc ấy còn hiện diện cả trong các công trình hiện đại. Đơn giản là bởi những nét kiến trúc cổ kính và đậm chất huyền thoại đã ăn sâu vào tâm thức của người dân Coventry bao đời nay.
Nếu bạn muốn người dân xứ Coventry kể cho bạn nghe câu chuyện huyền thoại nổi tiếng nhất của vùng, thì chắc chắn họ sẽ dẫn bạn đến quảng trường trung tâm và ngồi dưới bức tượng Lady Godiva nổi tiếng.
Công trình là hình tượng Lady Godiva ngồi trên ngựa, khỏa thân, mái tóc buông xõa. Hình của bức tượng này được khắc trong con dấu của Hội đồng thành phố Coventry. Quý bà Godiva là một nữ bá tước xinh đẹp ở thế kỉ thứ X, bà đã dũng cảm khỏa thân cưỡi ngựa đi một vòng quanh thành phố Coventry theo lời thách thức của người chồng, để ông ta giảm thuế nặng cho dân chúng. Nhiều công trình kiến trúc ở Coventry ngày nay mô phỏng lại hình bức tượng này như một dấu tích huyền thoại đáng tự hào.
Như để phù hợp với tâm thức luôn hướng về huyền thoại của người dân Coventry, kiến trúc nơi đây khoác lên mình vẻ đẹp cổ kính và sâu lắng. Nếu bạn là một du khách có ham muốn tìm kiếm những nét kiến trúc điển hình cho một thời kì đã cách xa đến sáu thế kỉ thì Coventry là điểm đến lí tưởng. Ở đây, từ những quảng trường, những bức tường thành hay cả những quán bar đều mang trên mình dấu vết cổ kính trong mỗi đường nét. Đặc biệt, lòng tự hào sâu sắc của người dân nơi đây được gửi vào kiến trúc tòa nhà thờ lớn. Đây là một công trình ghi dấu sự hưng thịnh của thời kì kiến trúc Gotic ở châu Âu với những mái vòm nhọn, với độ cao vời vợi, với những khung cửa sổ lớn được điêu khắc tinh tế. Hơn thế, nhà thở lớn ở Coventry còn là biểu tượng cho nền hòa bình của nhân loại. Nhà thờ Coventrys – nhà thờ lớn hiện đại ở thành phố Coventry được xây dựng bên cạnh nhà thờ cũ sau khi công trình này bị bom phá huỷ trong chiến tranh thế giời thứ hai như một biểu tượng bất diệt của hòa bình. Coventry từ đó đã phát triển uy tín quốc tế của mình là một trong những thành phố lớn về hòa giải và hòa bình của châu Âu.
Kiến trúc cổ ở Coventry không chỉ hiện diện ở các công trình công cộng mà còn có mặt trong các công trình dân dụng. Những mái nhà ở Coventry hiện nay vẫn mang nét đặc trưng của nhà của thế kỉ XV với các mái nhọn liên tiếp nhau, ống khói ở đỉnh nhà làm điểm nhấn và các nhà nối liền vách với nhau thành một khối lớn vững chắc.
Những công trình nhà ở này đến nay vẫn giữ được những nét kiến trúc đặc thù như trong các bản vẽ minh họa từ nhiều thế kỉ trước.
Phong cách kiến trúc Gotic cổ điển ấy còn hiện diện trong cả các công trình hiện đại được xây mới tại thành phố này. Đó có thể là các công trình lấy lối kiến trúc nhà ở điển hình của thế kỉ XV làm cảm hứng:
Hay những công trình lấy cảm hứng từ dạng kiến trúc ống khói của thế kỉ XV:
Các công trình kiến trúc cổ đã thực sự trở thành niềm tự hào của người dân thành phố Coventry. Khi đến thành phố cổ kính xinh đẹp này, du khách sẽ cảm thấy như đang bước đi giữa những lâu đài cổ tích.
Turku là một viên ngọc với vẻ đẹp được tạo nên bởi các công trình kiến trúc cổ kính, độc đáo của Phần Lan. Nơi đây có nhiều di sản văn hóa phong phú, pha trộn giữa nét kiến trúc hiện đại và truyền thống.
Thành phố cảng Turku nằm bên bờ biển Baltic. Đây được coi là một trong những điểm đến lý tưởng của vùng Tây Nam Phần Lan. Vào những ngày lạnh, những bông tuyết trắng dường như càng tô điểm thêm vẻ đẹp thêm sắc màu cổ tính cho các công trình kiến trúc tại thành phố cổ kính này.
Turku là một trong những thành phố lâu đời nhất Phần Lan, bởi thế những nét kiến trúc cổ xưa đã khoác lên cho thành phố này một vẻ đẹp trầm mặc xa xôi mà mọi du khách đều có thể cảm nhận thật rõ khi đặt chân tới đây. Đặc biệt, trong một ngày lạnh giá, những kiến trúc cổ lấp ló sau những tán cây cứng cỏi càng như toát lên một vẻ đẹp thần tiên.
Kiến trúc nhà thờ nơi đây được xây dựng theo lối kiến trúc cổ của nhiều thế kỉ trước. Khi đến với Turku, bạn đừng bỏ lỡ không viếng thăm ngôi nhà thờ lớn cổ kính góp phần đưa kiến trúc Phần Lan nổi tiếng khắp châu Âu.
Turku là nơi kết hợp vẻ đẹp thanh bình của một cố đô và sự hiện đại của một thành phố mới, sôi động. Trong tuyết lạnh, ranh giới của hai lối sống ấy như xóa nhòa nhường chỗ cho vẻ đẹp mang tính nghệ thuật cao.
Đến với nơi đây bạn nhớ dành thời gian đi trên cây cầu bắc ngang sông Aura, ngắm nhìn các công trình kiến trúc đồ sộ, bạn sẽ cảm nhận được sự yên bình của thành phố thơ mộng, giàu truyền thống văn hóa bậc nhất Phần Lan này.
Nếu may mắn được đến đền nổi Itsukushima vào dịp cuối năm hoặc đầu năm mới bạn sẽ có dịp cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp huyền ảo và sâu lắng ở nơi đây.
Đền Itsukushima là ngôi đền Thần giáo được xây dựng để thờ phụng ba vị thần biển: thần Ichikishima, thần Tagori và thần Tagitsu. Trong ngôi đền có lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật, nhiều vật dụng được xem như Quốc bảo của nền văn hóa xứ sở hoa Anh Đào.
Đền Nổi là một trong những công trình khác thường, đặc biệt nhất về kiến trúc tôn giáo trên thế giới. Toàn bộ quần thể bao gồm ngôi đền chính, nhiều đền thờ nhỏ khác bố trí bao quanh, một sân khấu kịch Noh, một phòng tấu nhạc và nhiều cây cầu cùng hành lang nối liền các khu vực khác nhau trong đền. Tổng chiều dài các hành lang lên đến 300 mét.
Công trình hoàn toàn không sử dụng một vật dụng kim lọai nào trong khi xây dựng, kể cả một chiếc đinh. Những kẻ hở giữa các tấm sàn được tính khéo léo sao cho có thể giảm bớt áp lực của triều cường khi có bão lớn. Các bộ phận của quần thể đền được kết hợp với nhau hài hòa trong gam màu đỏ chủ đạo như rực rỡ hơn khi soi bóng xuống nước biển thủy triều.
Cổng O-torri
Nếu có dịp đến với ngôi đền nổi tiếng của xứ sở mặt trời mọc, bạn hãy thức dậy sớm hơn thường lệ để đón ánh bình mình trên chiếc cổng đền tuyệt đẹp mang tên O-torri. Cổng O-torri đứng sừng sững trên mặt biển, hướng thẳng tới đền thờ Itsukushima và cũng chính là biểu tượng của đảo Miyajima. Cổng cao 16 mét, bộ mái dài 24 mét, với những cây cột chính, làm từ những cây gỗ độc mộc, có đường kính 1 mét. Cổng O-torii tự đứng vững bằng kết cấu khung của mình, không hề có bộ phận nào chôn dưới mặt đất. Khi thủy triều lên, cổng Torrii bập bềnh trên biển, khi thủy triều xuống, cổng được bị bùn bao phủ và mọi người có thể đi vào đền mà không cần tàu, thuyền.
Đền nằm giữa khung cảnh mênh mông là trời nước yên bình.
Hành lang dài tít tắp
Cầu Soribashi – Cầu Đại diện Hoàng gia.
Rêu phong phủ xanh những mái đền
Đến với Đền Nổi, mỗi người đều cảm thấy như lạc vào thế giới khác: trong trẻo, bình yên, thanh tịnh giữa mây trời, cây lá, nước xanh với lối kiến trúc riêng, khó có thể lẫn với bất cứ kiến trúc nào trên thế giới.
Nhà thờ Santa Maria del Fiore hay còn gọi là nhà thờ chính tòa nằm ở trung tâm thành phố Florence, Italy. Công trình được xây dựng theo lối kiến trúc Gothic – đặc trưng kiến trúc cổ của Italya trong khoảng từ thế kỷ XIII đến XV.
Santa Maria del Fiore là một trong 4 nhà thờ lớn nhất thế giới, được xây dựng từ năm 1296 do kiến trúc sư Arnolfo di Cambio thiết kế. Sau hơn một thế kỷ (năm 1436) công trình kiến trúc kỳ vĩ này mới được hoàn thành. Riêng các mái vòm của nhà thờ là thiết kế của kiến trúc sư Filippo Brunelleschi. Với đường kính 45m, mái vòm của nhà thờ là mái vòm lớn nhất thế giới.
Bên ngoài nhà thờ được trang trí hoàn toàn bằng đá cẩm thạch với nhiều màu sắc độc đáo khác nhau như màu xanh lục hay màu hồng giáp trắng.

Cũng như các công trình kiến trúc khác được xây dựng theo lối Gothic, bên trong các thánh đường được tạo nên bởi vô số những mái vòm với đường cong tinh tế.
Tuy nhiên, ấn tượng đặc biệt nhất đối với mỗi du khách khi đến đây lại là những ô cửa sổ màu. Toàn bộ nhà thờ có 44 ổ cửa sổ kính màu, tất cả các ô cửa đều sử dụng những tấm kính màu có kích cỡ lớn nhất ở Italy thứ kỷ XIV và XV. Các ô cửa sổ bên lối đi đều mô tả lại các vị thánh từ Cựu Ước và Tân Ước, trong khi đó các cửa sổ tròn gần mái vòm và cửa bên trong thánh đường lại miêu tả về Chúa Kitô và Đức Mẹ Maria. Những ô cửa sổ đầy giá trị nghệ thuật này đều được vẽ nên bởi các họa sỹ danh tiếng thời bấy giờ như: họa sỹ Donatello, Lorenzo Ghiberti, Paolo Uccello và Andrea del Castagno.
Sau khi xây xong, nhà thờ Santa Maria del Fiore đã trở thành nhà thờ lớn nhất Italy và không chỉ người dân ở Florence mà ở các vùng lân cận cũng thường xuyên đến đây cầu nguyện. Tuy nhiên, số lượng người đến cầu nguyện ngày một tăng khiến cho những người quyền lúc bấy giờ phải ra lệnh xây dựng thêm nhiều nhà thờ nhưng với quy mô nhỏ hơn. Chính vì vậy, Santa Maria del Fiore trở thành nhà thờ chính tòa.
Ngày nay, khi đến với nhà thờ cổ kính lớn nhất thế giới này, du khách không khỏi choáng ngợp trước những mái vòm khổng lồ, thánh đường rộng mênh mông cùng những đường cong bên trong nhà thờ mang đậm nét đăc của kiến trúc Gothic. Và không chỉ thế, khi ngắm nhìn từng bức tranh kính đầy nghệ thuật trong tiếng hát thánh ca trong trẻo giữa những hồi chuông ngân vang, bạn sẽ cảm thấy như mình đang lạc vào nước Chúa đầy bình yên và thánh thiện.
Khi đặt chân đến thủ đô Vienna - thành phố lịch sử nổi tiếng châu Âu nằm trong lòng chảo Vienna dưới chân núi phía Bắc dãy Alpen bạn sẽ ấn tượng bởi những tòa nhà cổ kính hội tụ tinh hoa của nghệ thuật kiến trúc truyền thống Áo.
Dọc theo dòng sông Danube trong xanh êm đềm du khách sẽ được chiêm ngưỡng từng công trình kiến trúc nguy nga, tráng lệ. Và khi đã đến với Vienna thì không một du khách nào bỏ lỡ cơ hội được chiêm ngưỡng những tuyệt tác kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc ở viện bảo tàng Kunsthistorisches.
Viện bảo tàng Kunsthistorisches (theo tiếng anh có nghĩa là viện bảo tàng của lịch sử nghệ thuật) tại thủ đô Vienna, là một trong những viện bảo tàng có tầm quan trọng hàng đầu về giá trị nghệ thuật trong sáng và nghệ thuật trang hoàng trên thế giới.
Bảo tàng lịch sử nghệ thuật được xây dựng theo lệnh của Hoàng đế Franz Joseph I như một phần mở rộng của thành phố vào năm 1858. Công trình được thiết kế hoành tráng và là nơi lưu trữ kho tàng nghệ thuật khổng lồ được thu thập qua nhiều thế kỷ.
Khu tòa nhà có được xây theo dạng hình chữ nhật và phần đỉnh là một mái vòm có chiều cao 60m. Mặt tiền của tòa nhà được xây hoàn toàn bằng đá sa thạch.
Khi vào bên trong bảo tàng, du khách sẽ hoàn toàn bị chinh phục và choáng ngợp trước cách trang trí vô cùng phong phú với hàng loạt các loại đá cẩm thạch, trát vữa stucco. Nhiều chi tiết còn được dát bằng vàng lá sang trọng, lấp lánh.
Bên cạnh đó là nhiều bức họa nổi tiếng, quý giá góp phần đưa bảo tàng trở thành một công trình nghệ thuật đặc biệt thu hút nhiều du khách tham quan nhiều bậc nhất thế giới.

No comments:

Post a Comment