Đằng sau cánh cửa này ẩn chứa nhiều điều bất ngờ...
Những bức tường rất kiên cố...
Đường hầm
Nhà bếp với nhiều tiện nghi...
Phòng giải trí với tivi màn ảnh rộng và dàn loa hiện đại.
Nội thất ấn tượng...
Rạp chiếu phim tại nhà...
Phòng khách rất rộng và ấm cúng.
Phòng đọc sách.
Nhà tắm hiện đại, sang trọng.
Có cả buồng tắm hơi nữa ! Một biệt thự hết sức ấn tượng phải không nào? Liệu bạn có muốn ở trong 1 căn nhà thế này không?
Wednesday, August 25, 2010
"Hầm tránh bom" kiểu đại gia
Chùa Bái Đính
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa được coi là to và đẹp nhất Việt Nam thuộc địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa là một phần của khu di tích Cố đô Hoa Lư và được biết đến với nhiều kỷ lục được xác lập. Năm 1997 Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận chùa Bái Đính là di tích Lịch sử-Văn hóa cấp quốc gia.
Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có 3 triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: Nhà Đinh, Nhà Lê và Nhà Lý. Ba Triều đại phong kiến này đều rất quan tâm đến Đạo Phật và coi Đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên núi Đính.
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư nên nó được xem là một phần của Cố đô. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.
Ngay cả khi đang xây dựng, chùa Bái Đính đã thu hút rất đông du khách về thăm quan, chiêm bái. Thông tin về khu chùa và các sự kiện liên tục được đăng tải trên báo chí với các chủ đề nóng như: Chuyện "không tin nổi" về ngôi chùa Bái Đính tráng lệ,“Hạ Long trên cạn” và ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á,chùa Bái Đính - Ngôi chùa sở hữu nhiều kỷ lục nhất Việt Nam,Bái Đính - “Lục nhất” Việt Nam,Để chùa Bái Đính trở thành di sản văn hóa thế giới, Chùa Bái Đính, công trình Phật giáo cấp quốc gia của VN,Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á đang được hoàn thiện, Lên núi Bái Đính, xem chùa lớn nhất nước Nam. Lễ rước ngọc xá lợi Phật lớn nhất VN, Quốc vương Campuchia thăm chùa Bái Đính, Chùm ảnh chùa Bái Đính tráng lệ, Ùn ùn thăm chùa lớn nhất Đông Nam Á, Đầu năm, du khách mê mẩn Chùa Bái Đính...Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m men theo sườn núi Đính. Khu chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang động sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến hang động tối thờ mẫu. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần.
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Mẫu. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Minh đỉnh danh lam có nghĩa đây là ngôi chùa thờ Phật rất đẹp và có giá trị, xứng đáng được ghi vào minh văn khắc trên đỉnh đồng để ai cũng biết, cũng ghi nhớ. Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông còn tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:
- Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
- Che chở kinh thành tự thuở xưa
- Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
- Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới hang Tối. Hang Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống... Các vị tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Đền thờ thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không gần 5 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.
Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây xưa là đền thờ thần Cao Sơn. Khi Đinh Tiên Hoàng Đế dựng kinh đô Hoa Lư đã cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành. Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền Núi Hầu (xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ[19]. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Giếng ngọc
Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền cách đây gần 1.000 năm Thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Thái tử Dương Hoán. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007.
Sự kiện lịch sử
Tên gọi chùa Bái Đính mang ý nghĩa là hướng về núi Đính, nơi diễn ra các sự kiện oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Núi chùa Bái Đính chính là nơi Đinh Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa, sau này tiếp tục được vua Quang Trung chọn để làm lễ tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh[20][21]. Thế kỷ XVI núi Đính là địa bàn tranh chấp giữa 2 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, khi mà chính quyền nhà Mạc chỉ kiểm soát được vùng lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra. Núi chùa Bái Đính cũng[22] là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo Đảng tuyên truyền cách mạng tới nhân dân.
Khu Chùa Bái Đính mới
Chùa Bái Đính mới (Bái Đính tân tự) có diện tích rộng 80 ha, nằm phía bên kia núi so với chùa cổ và ở phía tây cố đô Hoa Lư. Đây là một công trình lớn gồm nhiều hạng mục, được xây dựng trong nhiều giai đoạn khác nhau. Dự án này thuộc danh sách các công trình chào mừng 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Kiến trúc chùa nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng (giống chùa Nhật Bản hay Trung quốc) nhưng mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam như sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm... Điều khác biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng, nó không giống với nét thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết trang chí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn của các làng nghề nổi tiếng như đúc đồng Ý Yên, chế tạc đá Ninh Vân, mộc Phú Lộc, thêu Ninh Hải.v.v...
Chùa Bái Đính khi xây dựng được gọi là "đại công trường" với 500 công nhân xây dựng[23] gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những các làng nghề nổi tiếng về xây dựng như mộc Từ Sơn, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng... các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng... để tạo ra nét thuần Việt trong kiến trúc chùa Bái Đính.
Điều đặc biệt ở công trường xây dựng chùa Bái Đính là không gian nơi đây luôn mở. Ngay từ khi xây dựng với đại tượng phật còn đặt ở ngoài trời đã thu hút rất đông các đoàn người hành hương chiêm bái. Du khách có thể đi bất cứ nơi nào để quan sát các bộ phận công trình đang hình thành.
Đặc điểm kiến trúc
Tên công trình | Hình ảnh | Đặc điểm kiến trúc | Đối tượng suy tôn | |
---|---|---|---|---|
Cổng Tam Quan |
| Cột và kèo Tam Quan được làm bằng gỗ tứ thiết. Chiều cao tới đỉnh 16,5 m, gồm 3 tầng mái lợp ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. | 2 pho hai tượng Hộ pháp với ông thiện và ông ác bằng đồng cao 5,5 m, nặng 12 tấn và 8 pho tượng Kim Cương (theo một trường phái Phật giáo xuất hiện trong khoảng thế kỉ thứ 5, 6 tại Ấn Độ). | |
Hành lang La Hán |
| Hành lang La Hán gồm 234 gian nối liền với hai đầu Tam Quan, có chiều dài 1.052 m và chiều cao sàn nâng dần theo sườn đồi | Trong các gian nhà hành lang đặt 500 tượng La Hán bằng đá xanh Ninh Bình nguyên khối cao tới 2,5 m, nặng khoảng 4 tấn. Mỗi vị La Hán có một dáng vẻ khác nhau để miêu tả sự sống trần thế. | |
Tháp chuông |
| Tháp chuông hình bát giác, cao 22 m. Đường kính trong tháp là 17 m, phủ bì 49 m. Cột bằng bê tông cốt thép giả gỗ. Tháp chuông có 3 tầng 8 mái với 24 đao cong vút lên. | Tháp chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn được cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam". Phía dưới quả chuông đồng này là một quả trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp chuông. | |
Điện Quan Thế Âm |
| Điện cao 14,8 m, dài 41,8 m, rộng 17,4 m, gồm 7 gian với hệ thống cột bằng gỗ tứ thiết | Gian giữa của điện đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt, đúc bằng đồng nặng 80 tấn, cao 9,57 m. Được công nhận là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam. | |
Điện Pháp Chủ |
| Cao 30 m, chiều dài 47,6 m, chiều rộng 43,3 m. Điện có 5 gian, gian giữa rộng 13,5 m, 4 gian hai bên rộng 8 m. Hệ thống cột bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ. | Gian giữa đặt pho tượng Phật Pháp Chủ bằng đồng cao 10 m, nặng 100 tấn. Được xác nhận kỷ lục ”Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam”. Trong điện còn treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn nhất Việt Nam. | |
Điện Tam Thế |
| Tọa lạc ở trên đồi cao so với mặt nước biển là 76 m, cao 34 m, dài 59,1 m, rộng hơn 40 m. Hệ thống cột bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ. | Trong điện Tam Thế đặt 3 pho tượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7,2 m, nặng 50 tấn. Được xác nhận kỷ lục: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”. |
Những kỷ lục
Chùa Bái Đính được báo giới ca ngợi là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ lục. Tính đến ngày 6/6/2009 ngôi chùa này đã có 6 kỷ lục được công nhận. Những kỷ lục của chùa Bái Đính[24][25] được xác lập gồm:
- Năm Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: tượng Phật Tổ 100 tấn; 3 pho Tam Thế 50 tấn; phật Di Lặc 100 tấn và Quan Thế Âm 90 tấn.[26]
- Hai chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á: chuông 36 tấn trong tháp chuông và chuông 27 tấn sân Điện Pháp Chủ.
- Khu chùa rộng nhất Việt Nam: tổng 107ha (khu chùa cổ 27 ha, chùa mới 80 ha)[27] riêng điện Tam Thế và điện Pháp Chủ có diện tích lên tới 1.000 m².
- Khu chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam: 500 vị bằng đá xanh cao khoảng 2m.
- Khu chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam.
- Khu chùa có số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam: 100 cây bồ đề được chiết từ cây bồ đề Ấn Độ[28][29].
Những sự kiện văn hóa
Với vai trò là một trung tâm phật giáo, khu chùa Bái Đính là nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa lớn:
- Ngày 17/5/2008, chùa Bái Đính là địa điểm để đại biểu các nước tham quan, chiêm bái trong đại lễ Phật đản thế giới tổ chức lần đầu tại Việt Nam. Trong ngày, các vị đã làm lễ hô thần nhập tượng, chính thức khánh thành giai đoạn I khu chùa.
- Ngày 25/6/2008 Quốc Vương Campuchia Norodom Sihamoni thăm chùa Bái Đính. Ông đã tặng chùa Bái Đính bức tượng Di đà bằng chất liệu đá Campuchia, đặt tại điện Tam Thế và trồng cây lưu niệm tại chùa.[30] Ngày 18/1/2009 phái đoàn của chủ tịch Quốc hội Campuchia cũng đến thăm quan khu chùa.
- Ngày 6/6/2009 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử hành đại lễ cung nghinh ngọc xá lợi Phật về thờ tại chùa Bái Đính. Đây là sự kiện văn hóa, tôn giáo rất đặc biệt và lộ trình rước ngọc xá lợi được bảo vệ nghiêm ngặt để đưa 16 viên ngọc xá lợi Phật và xá lợi các Thánh Tăng có nguồn gốc và lịch sử lưu giữ suốt hơn 2500 năm ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan.[31]
- Ngày 3/3/2010 Chủ tịch Phật giáo thế giới ở Ấn Độ tặng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Ngọc xá lợi Phật. Đây là lần đầu tiên Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức cử hành cung nghinh xá lợi Phật từ Ấn Độ về nước. Và là lần thứ hai Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức tổ chức đại lễ cung nghinh Ngọc xá lợi Phật.[32] Cả hai sự kiện đều diễn ra ở chùa Bái Đính.
Lễ hội chùa Bái Đính
Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội xuân diễn ra từ ngày mùng 6 tết đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
Với ưu thế của một quần thể chùa lớn gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới liền nhau, lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội lớn ở miền Bắc và là một lễ hội truyền thống điển hình của người Việt Nam. Chùa Bái Đính là một trong những di sản văn hoá quốc gia có giá trị về mặt lịch sử, tâm linh và danh thắng. Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội chùa Bái Đính diễn ra trong suốt mùa xuân. Trước ngày mở hội và ngay cả trong thời gian đón tết, tất cả các động, chùa trên núi Bái Đính đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm khắp vùng quê chiêm trũng. Về phần lễ ở chùa Bái Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với các danh nhân đức Lý Quốc Sư, Quang Trung, Đinh Bộ Lĩnh. Như vậy, phần lễ gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.
Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tình yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng, dân tộc lấn đi. Cả ở những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng thuốc… là những đoàn người trẩy hội. Núi Đính đứng độc lập, sừng sững giữa vùng bán sơn địa, được tạo thành bởi hai dãy núi khép lại hình cánh cung và hướng về phía tây - tựa như tay ngai, mở ra một thung lũng rộng hơn 3 ha - gọi là Thung Chùa. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, du khách bước trên 300 bậc đá, càng lên cao không khí càng trong lành và thoáng mát, mọi lo toan trong cuộc sống đời thường như bị quên lãng. Theo lộ trình du khách lên hết dốc là tới ngã ba: Bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự do Lê Thánh Tông khắc trên đá: có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Với sự hiện diện của các pho tượng uy nghiêm hiện, ẩn trong làn hương trầm đang lưu chuyển ở nơi động cao. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một hang nhỏ hơn, đó là hang thờ Thần Cao Sơn - một vị tướng tài gắn với đất cố đô. Nếu du khách bước tiếp sẽ tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Tương truyền rằng đây là nơi có nhiều cây thuốc quý mà Thánh Nguyễn Minh Không thường xuống hái lượm mang về chế thuốc tiên.
Du khách đến lễ hội chùa Bái Đính còn cảm nhận được tình yêu thiên nhiên trong ngày hội lịch sử để từ đó hướng về quá khứ dựng nước của cha ông. Leo núi chơi hang, chơi động với đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Cuộc hành hương ấy có thể tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đẹp. Các hoạt động hội hè với đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, thi hát diễn ra khá nhộn nhịp đông vui. Trẩy hội chùa Bái Đính không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do sự tiếp xúc, hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp của sông nước, đất trời, núi rừng, hang động… Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách. Trẩy hội chùa Bái Đính là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.
Chùa Bái Đính
Chùa Bái Đính là một quần thể chùa được coi là to và đẹp nhất Việt Nam thuộc địa phận xã Gia Sinh, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Chùa là một phần của khu di tích Cố đô Hoa Lư và được biết đến với nhiều kỷ lục được xác lập. Năm 1997 Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận chùa Bái Đính là di tích Lịch sử-Văn hóa cấp quốc gia.
Hơn 1000 năm về trước, tại Ninh Bình đã có 3 triều đại Vua nối tiếp nhau ra đời: Nhà Đinh, Nhà Lê và Nhà Lý. Ba Triều đại phong kiến này đều rất quan tâm đến Đạo Phật và coi Đạo Phật là Quốc giáo; cho nên tại Ninh Bình có rất nhiều chùa cổ, trong đó có chùa Bái Đính, trên núi Đính.
Quần thể chùa Bái Đính gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003. Chùa nằm trên sườn núi, giữa những thung lũng mênh mông hồ và núi đá, ở cửa ngõ phía tây vào cố đô Hoa Lư nên nó được xem là một phần của Cố đô. Kiến trúc hoành tráng, đồ sộ nhưng mang đậm bản sắc truyền thống phù hợp với tâm lý hiếu kỳ, tò mò của người Việt Nam thời nay. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng. Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là một quần thể chùa lớn nhất Đông Nam Á.
Ngay cả khi đang xây dựng, chùa Bái Đính đã thu hút rất đông du khách về thăm quan, chiêm bái. Thông tin về khu chùa và các sự kiện liên tục được đăng tải trên báo chí với các chủ đề nóng như: Chuyện "không tin nổi" về ngôi chùa Bái Đính tráng lệ,“Hạ Long trên cạn” và ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á,chùa Bái Đính - Ngôi chùa sở hữu nhiều kỷ lục nhất Việt Nam,Bái Đính - “Lục nhất” Việt Nam,Để chùa Bái Đính trở thành di sản văn hóa thế giới, Chùa Bái Đính, công trình Phật giáo cấp quốc gia của VN,Ngôi chùa lớn nhất Đông Nam Á đang được hoàn thiện, Lên núi Bái Đính, xem chùa lớn nhất nước Nam. Lễ rước ngọc xá lợi Phật lớn nhất VN, Quốc vương Campuchia thăm chùa Bái Đính, Chùm ảnh chùa Bái Đính tráng lệ, Ùn ùn thăm chùa lớn nhất Đông Nam Á, Đầu năm, du khách mê mẩn Chùa Bái Đính...Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới khoảng 800 m men theo sườn núi Đính. Khu chùa này nằm gần trên đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang bên phải là hang động sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến hang động tối thờ mẫu. Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần.
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Mẫu. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự "Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Minh đỉnh danh lam có nghĩa đây là ngôi chùa thờ Phật rất đẹp và có giá trị, xứng đáng được ghi vào minh văn khắc trên đỉnh đồng để ai cũng biết, cũng ghi nhớ. Khi lên vãn cảnh chùa trên đỉnh Bái Đính, vua Lê Thánh Tông còn tạc một bài thơ tứ tuỵêt chữ Hán được dịch như sau:
- Đính Sơn danh tiếng thực cao xa
- Che chở kinh thành tự thuở xưa
- Nhân kiệt, địa linh nên vượng khí
- Núi thiêng cảnh đẹp vững sơn hà.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới hang Tối. Hang Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do nước lạnh từ trần động rơi xuống... Các vị tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Đền thờ thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một thiền sư, pháp sư tài danh được nhân dân tôn sùng gọi là đức thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh Không gần 5 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ phật và tạo dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng đồng.
Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý. Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá Việt sau này.
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây xưa là đền thờ thần Cao Sơn. Khi Đinh Tiên Hoàng Đế dựng kinh đô Hoa Lư đã cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3 vòng thành. Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền thánh Nguyễn, cũng xây tựa lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền Núi Hầu (xã Yên Thắng, huyện Yên Mô, Ninh Bình) thì Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi vâng mệnh vua anh (Hùng Vương thứ nhất) đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân lập đền thờ[19]. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Giếng ngọc
Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền cách đây gần 1.000 năm Thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân và chữa bệnh cho Thái tử Dương Hoán. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007.
Sự kiện lịch sử
Tên gọi chùa Bái Đính mang ý nghĩa là hướng về núi Đính, nơi diễn ra các sự kiện oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Núi chùa Bái Đính chính là nơi Đinh Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa thuận gió hòa, sau này tiếp tục được vua Quang Trung chọn để làm lễ tế cờ động viên quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh[20][21]. Thế kỷ XVI núi Đính là địa bàn tranh chấp giữa 2 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, khi mà chính quyền nhà Mạc chỉ kiểm soát được vùng lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra. Núi chùa Bái Đính cũng[22] là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo Đảng tuyên truyền cách mạng tới nhân dân.
Khu Chùa Bái Đính mới
Chùa Bái Đính mới (Bái Đính tân tự) có diện tích rộng 80 ha, nằm phía bên kia núi so với chùa cổ và ở phía tây cố đô Hoa Lư. Đây là một công trình lớn gồm nhiều hạng mục, được xây dựng trong nhiều giai đoạn khác nhau. Dự án này thuộc danh sách các công trình chào mừng 1000 năm Thăng Long Hà Nội.
Kiến trúc chùa nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng (giống chùa Nhật Bản hay Trung quốc) nhưng mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam như sử dụng nguyên vật liệu chính ở địa phương (đá xanh Ninh Bình, gỗ tứ thiết), ngói men Bát Tràng màu nâu sẫm... Điều khác biệt nhất ở kiến trúc chùa Bái Đính thể hiện ở vòm mái màu nâu sẫm cong vút hình đuôi chim phượng, nó không giống với nét thẳng thô của chùa Trung Quốc. Các chi tiết trang chí kiến trúc chùa cũng mang đậm dấu ấn của các làng nghề nổi tiếng như đúc đồng Ý Yên, chế tạc đá Ninh Vân, mộc Phú Lộc, thêu Ninh Hải.v.v...
Chùa Bái Đính khi xây dựng được gọi là "đại công trường" với 500 công nhân xây dựng[23] gồm rất nhiều tổ thợ đến từ những các làng nghề nổi tiếng về xây dựng như mộc Từ Sơn, trạm khắc đá Ninh Vân, đúc đồng Ý Yên, thêu ren Văn Lâm, sơn mài Cát Đằng... các nghệ nhân này được sử dụng các vật liệu địa phương như gỗ lim, đá xanh Ninh Bình, ngói men Bát Tràng... để tạo ra nét thuần Việt trong kiến trúc chùa Bái Đính.
Điều đặc biệt ở công trường xây dựng chùa Bái Đính là không gian nơi đây luôn mở. Ngay từ khi xây dựng với đại tượng phật còn đặt ở ngoài trời đã thu hút rất đông các đoàn người hành hương chiêm bái. Du khách có thể đi bất cứ nơi nào để quan sát các bộ phận công trình đang hình thành.
Đặc điểm kiến trúc
Tên công trình | Hình ảnh | Đặc điểm kiến trúc | Đối tượng suy tôn | |
---|---|---|---|---|
Cổng Tam Quan | | Cột và kèo Tam Quan được làm bằng gỗ tứ thiết. Chiều cao tới đỉnh 16,5 m, gồm 3 tầng mái lợp ngói men ống Bát Tràng màu nâu sẫm. | 2 pho hai tượng Hộ pháp với ông thiện và ông ác bằng đồng cao 5,5 m, nặng 12 tấn và 8 pho tượng Kim Cương (theo một trường phái Phật giáo xuất hiện trong khoảng thế kỉ thứ 5, 6 tại Ấn Độ). | |
Hành lang La Hán | | Hành lang La Hán gồm 234 gian nối liền với hai đầu Tam Quan, có chiều dài 1.052 m và chiều cao sàn nâng dần theo sườn đồi | Trong các gian nhà hành lang đặt 500 tượng La Hán bằng đá xanh Ninh Bình nguyên khối cao tới 2,5 m, nặng khoảng 4 tấn. Mỗi vị La Hán có một dáng vẻ khác nhau để miêu tả sự sống trần thế. | |
Tháp chuông | | Tháp chuông hình bát giác, cao 22 m. Đường kính trong tháp là 17 m, phủ bì 49 m. Cột bằng bê tông cốt thép giả gỗ. Tháp chuông có 3 tầng 8 mái với 24 đao cong vút lên. | Tháp chuông treo một quả chuông nặng 36 tấn được cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam". Phía dưới quả chuông đồng này là một quả trống đồng lớn nặng 70 tấn nằm trên nền tháp chuông. | |
Điện Quan Thế Âm | | Điện cao 14,8 m, dài 41,8 m, rộng 17,4 m, gồm 7 gian với hệ thống cột bằng gỗ tứ thiết | Gian giữa của điện đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát nghìn tay nghìn mắt, đúc bằng đồng nặng 80 tấn, cao 9,57 m. Được công nhận là pho tượng Quan Thế Âm Bồ Tát bằng đồng lớn nhất ở Việt Nam. | |
Điện Pháp Chủ | | Cao 30 m, chiều dài 47,6 m, chiều rộng 43,3 m. Điện có 5 gian, gian giữa rộng 13,5 m, 4 gian hai bên rộng 8 m. Hệ thống cột bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ. | Gian giữa đặt pho tượng Phật Pháp Chủ bằng đồng cao 10 m, nặng 100 tấn. Được xác nhận kỷ lục ”Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng lớn nhất Việt Nam”. Trong điện còn treo 3 bức hoành phi và 3 cửa võng lớn nhất Việt Nam. | |
Điện Tam Thế | | Tọa lạc ở trên đồi cao so với mặt nước biển là 76 m, cao 34 m, dài 59,1 m, rộng hơn 40 m. Hệ thống cột bằng bê tông cốt thép sơn giả gỗ. | Trong điện Tam Thế đặt 3 pho tượng Tam Thế Phật (quá khứ, hiện tại và tương lai) bằng đồng cao 7,2 m, nặng 50 tấn. Được xác nhận kỷ lục: “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam”. |
Những kỷ lục
Chùa Bái Đính được báo giới ca ngợi là một ngôi chùa nổi tiếng với những kỷ lục. Tính đến ngày 6/6/2009 ngôi chùa này đã có 6 kỷ lục được công nhận. Những kỷ lục của chùa Bái Đính[24][25] được xác lập gồm:
- Năm Tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á: tượng Phật Tổ 100 tấn; 3 pho Tam Thế 50 tấn; phật Di Lặc 100 tấn và Quan Thế Âm 90 tấn.[26]
- Hai chuông đồng lớn nhất Đông Nam Á: chuông 36 tấn trong tháp chuông và chuông 27 tấn sân Điện Pháp Chủ.
- Khu chùa rộng nhất Việt Nam: tổng 107ha (khu chùa cổ 27 ha, chùa mới 80 ha)[27] riêng điện Tam Thế và điện Pháp Chủ có diện tích lên tới 1.000 m².
- Khu chùa có nhiều tượng La Hán nhất Việt Nam: 500 vị bằng đá xanh cao khoảng 2m.
- Khu chùa có giếng ngọc lớn nhất Việt Nam.
- Khu chùa có số cây bồ đề nhiều nhất Việt Nam: 100 cây bồ đề được chiết từ cây bồ đề Ấn Độ[28][29].
Những sự kiện văn hóa
Với vai trò là một trung tâm phật giáo, khu chùa Bái Đính là nơi diễn ra nhiều sự kiện văn hóa lớn:
- Ngày 17/5/2008, chùa Bái Đính là địa điểm để đại biểu các nước tham quan, chiêm bái trong đại lễ Phật đản thế giới tổ chức lần đầu tại Việt Nam. Trong ngày, các vị đã làm lễ hô thần nhập tượng, chính thức khánh thành giai đoạn I khu chùa.
- Ngày 25/6/2008 Quốc Vương Campuchia Norodom Sihamoni thăm chùa Bái Đính. Ông đã tặng chùa Bái Đính bức tượng Di đà bằng chất liệu đá Campuchia, đặt tại điện Tam Thế và trồng cây lưu niệm tại chùa.[30] Ngày 18/1/2009 phái đoàn của chủ tịch Quốc hội Campuchia cũng đến thăm quan khu chùa.
- Ngày 6/6/2009 Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cử hành đại lễ cung nghinh ngọc xá lợi Phật về thờ tại chùa Bái Đính. Đây là sự kiện văn hóa, tôn giáo rất đặc biệt và lộ trình rước ngọc xá lợi được bảo vệ nghiêm ngặt để đưa 16 viên ngọc xá lợi Phật và xá lợi các Thánh Tăng có nguồn gốc và lịch sử lưu giữ suốt hơn 2500 năm ở nhiều quốc gia như Ấn Độ, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan.[31]
- Ngày 3/3/2010 Chủ tịch Phật giáo thế giới ở Ấn Độ tặng Giáo hội Phật giáo Việt Nam Ngọc xá lợi Phật. Đây là lần đầu tiên Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức cử hành cung nghinh xá lợi Phật từ Ấn Độ về nước. Và là lần thứ hai Giáo hội Phật giáo Việt Nam chính thức tổ chức đại lễ cung nghinh Ngọc xá lợi Phật.[32] Cả hai sự kiện đều diễn ra ở chùa Bái Đính.
Lễ hội chùa Bái Đính
Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội xuân diễn ra từ ngày mùng 6 tết đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
Với ưu thế của một quần thể chùa lớn gồm một khu chùa cổ và một khu chùa mới liền nhau, lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội lớn ở miền Bắc và là một lễ hội truyền thống điển hình của người Việt Nam. Chùa Bái Đính là một trong những di sản văn hoá quốc gia có giá trị về mặt lịch sử, tâm linh và danh thắng. Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội chùa Bái Đính diễn ra trong suốt mùa xuân. Trước ngày mở hội và ngay cả trong thời gian đón tết, tất cả các động, chùa trên núi Bái Đính đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm khắp vùng quê chiêm trũng. Về phần lễ ở chùa Bái Đính diễn ra tương đối trang trọng vì ở đây không chỉ thờ các vị sơn thần, phật tổ, bà chúa thượng ngàn mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc với các danh nhân đức Lý Quốc Sư, Quang Trung, Đinh Bộ Lĩnh. Như vậy, phần lễ gồm tổng hòa toàn thể hệ thống tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.
Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tình yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng, dân tộc lấn đi. Cả ở những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng thuốc… là những đoàn người trẩy hội. Núi Đính đứng độc lập, sừng sững giữa vùng bán sơn địa, được tạo thành bởi hai dãy núi khép lại hình cánh cung và hướng về phía tây - tựa như tay ngai, mở ra một thung lũng rộng hơn 3 ha - gọi là Thung Chùa. Lên thăm hang động ở núi Bái Đính, du khách bước trên 300 bậc đá, càng lên cao không khí càng trong lành và thoáng mát, mọi lo toan trong cuộc sống đời thường như bị quên lãng. Theo lộ trình du khách lên hết dốc là tới ngã ba: Bên phải là động thờ Phật, bên trái là động thờ Tiên. Phía trên cửa động Phật có 4 chữ đại tự do Lê Thánh Tông khắc trên đá: có nghĩa là: “Lưu Danh Thơm Cảnh Đẹp”. Với sự hiện diện của các pho tượng uy nghiêm hiện, ẩn trong làn hương trầm đang lưu chuyển ở nơi động cao. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối động sẽ dẫn tới một hang nhỏ hơn, đó là hang thờ Thần Cao Sơn - một vị tướng tài gắn với đất cố đô. Nếu du khách bước tiếp sẽ tới một cửa hang sáng và rộng, một thung lũng xanh hiện ra. Tương truyền rằng đây là nơi có nhiều cây thuốc quý mà Thánh Nguyễn Minh Không thường xuống hái lượm mang về chế thuốc tiên.
Du khách đến lễ hội chùa Bái Đính còn cảm nhận được tình yêu thiên nhiên trong ngày hội lịch sử để từ đó hướng về quá khứ dựng nước của cha ông. Leo núi chơi hang, chơi động với đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Cuộc hành hương ấy có thể tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đẹp. Các hoạt động hội hè với đấu vật, ném còn, đánh bài, kéo co, thi hát diễn ra khá nhộn nhịp đông vui. Trẩy hội chùa Bái Đính không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do sự tiếp xúc, hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp của sông nước, đất trời, núi rừng, hang động… Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách. Trẩy hội chùa Bái Đính là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền.