Cây cảnh là một số loại thực vật được chăm sóc, gieo trồng và tạo dáng công phu, thường dùng làm vật trang trí hay một chi tiết trong thuật phong thủy.
Cây cảnh được bài trí có khi nhằm thể hiện một ý tưởng của người trồng qua cách xếp đặt mà vẫn giữ được vẻ tự nhiên của lá. Thân cây được uốn theo một hình dáng nào đó, còn gọi là thế, kết hợp với chậu, đất hay nước là môi trường dinh dưỡng cho thực vật ấy.
Bên cạnh mục tiêu làm cảnh (vì lẽ này cây cảnh đã được tuyên lên thành nghệ thuật như ở Nhật Bản có bonsai) cây cảnh còn là một loại hàng hóa được kinh doanh không theo một khung giá cố định nào mà phần nhiều tùy hứng của người bán và người mua hoặc tùy tâm của người bán.(Nguồn: wikipedia)
Cây cảnh được nghệ thuật hóa đã xuất hiện hàng nghìn năm về trước do nhu cầu thưởng ngoạn của vua chúa, quan lại, địa chủ... Cây cảnh có mặt trong các vườn thượng uyển, tiểu cảnh non bộ dưới dạng những cây dáng thế được uốn tỉa cầu kỳ, chăm sóc, bảo vệ rất công phu để đáp ứng nhu cầu hưởng lạc của chủ nhân.
Ở nước ta sau ngày thống nhất đất nước (30- 4- 1975), cùng với đà tăng trưởng kinh tế, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, nhu cầu hưởng lạc thú về sinh vật cảnh đã dẫn đến hội Sivaca được thành lập từ địa phương tới trung ương, cuốn hút nhiều người yêu Sivaca (cảnh trần vật thế, nước non tiên) trong đó có những nghệ nhân sáng tạo cây cảnh nghệ thuật. Thí dụ hội Sivaca Hải Dương tiền thân là hội Sivaca thị xã Hải Dương thành lập từ cuối thập kỷ 80, thế kỷ 20, đã tập hợp hàng chục nghìn hội viên, tổ chức được nhiều triển lãm, Festival cây cảnh. Trong đó nổi bật là cây cảnh nghệ thuật có nhiều hơn, có những chậu bon-sai trị giá hàng tỷ đồng (như gốc sanh 150 tuổi bạt phong long dáng của nghệ nhân Nguyễn Mạnh Cường, TP Hải Dương, có giá khởi điểm 2 tỷ 235 triệu đồng, vườn cảnh nghệ thuật của nhà ông Ðiệp tiền sảnh nhà 25 tầng Nam Cường (Hotel) giá trị hàng trăm tỷ đồng...).
Cùng với sản phẩm hàng hóa khác, sinh vật cảnh nói chung, nổi bật là cây cảnh nghệ thuật ngày càng đạt tỷ lệ cao trong GDP nhưng cái mà hàng hóa khác không có được như ở sivaca - món ăn tinh thần không bao giờ vơi cạn...
Ðể có được những cây cảnh nghệ thuật, đúng như lời cổ nhân để lại là "nghề chơi cũng lắm công phu" đòi hỏi người chơi phải có cả khối óc và bàn tay thỏa mãn nhu cầu chiêm ngưỡng nghệ thuật tạo hình, tạo hình của cây cảnh nghệ thuật và đáp ứng nhu cầu tồn tại bền vững của chúng. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin nêu lên một số nét về nghệ thuật tạo tác và chơi cây cảnh nghệ thuật mà thôi.
Ðầu tiên là công đoạn chọn "phôi", chọn các cây thân gỗ lưu niên đã có hàng chục tuổi trở lên, nhưng khả năng sinh trưởng và phát triển vẫn tốt, chống chịu giỏi với mọi ngoại cảnh (từ nền đất tự nhiên đưa vào bồn, chậu, gặp nắng hạn, mưa gió, giá rét, v.v.) , dễ uốn, tỉa (định hình dáng thế theo ý muốn của chủ nhân). Nếu có công sưu tầm được những cây vốn có sẵn trong tự nhiên dáng kỳ lạ, lâu năm để làm phôi thì giá trị mỹ quan sivaca và kinh tế càng cao (bởi độ tuổi được xếp thứ hạng rất cao - "Lão mộc sinh hổ tử"), những cây trong các bộ tứ linh (đa, sung, sanh, si), tứ quý (tùng, trúc, cúc, mai), tam đa (vạn tuế, lộc vừng, sung mang quả) là những phôi thích hợp vì thỏa mãn "nhân văn", hợp thuần phong, mỹ tục.
Lưu ý: Vì độ tuổi, dáng thế được đánh giá cao trong loại hình cây cảnh nghệ thuật nên người ta không chọn cây ngắn ngày để tạo tác cây cảnh nghệ thuật.
Tiếp theo là khâu ươm trồng, chăm sóc , bảo vệ cần chủ động tạo môi trường sống (điều kiện ngoại cảnh), nhất là điều kiện sống như nhiệt, ẩm độ, độ phì nhiêu của đất, sâu bệnh... phải được hoàn tất với từng đối tượng bởi mỗi giống, loài cây đòi hỏi điều kiện sống đặc trưng, thích hợp với giải mã các gien trội trong cơ cấu di truyền (Thí dụ nếu lộc vừng thiếu nước sẽ rất khó trổ hoa, còn vạn tuế, ngọc lan bị sũng nước dài ngày từ 3 - 5 ngày trở lên sẽ "thâm rễ thối mầm").
Sau cùng là vận dụng kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn vào tạo tác phôi trở thành cây cảnh nghệ thuật. Ðây là công đoạn khó khăn nhất bởi đòi hỏi chủ nhân phải "biết làm và biết chơi"- có tâm hồn trong sáng, phóng khoáng (bay bổng) nhưng không được thoát ly thực tiễn sống động, phi nhân cách, vi phạm mỹ tục thuần phong. Cùng với hiểu biết hình học không gian (tạo phần nổi phải nắm vững phối kết hợp không gian ba chiều) và đôi bàn tay khéo, tính kiên trì, chờ đợi (rất đúng với lời dạy của cổ nhân: dục tốc bất đạt).
Cần lồng ý tưởng của con người vào quá trình tạo tác ra cây cảnh nghệ thuật ngay từ khi cây bén rễ chồi xanh phát cành, lộc mới. Chớ để già mới uốn tỉa như câu "bé không vin cả gãy cành" (do hóa gỗ tỷ lệ cuticun, lignhin (sừng) tăng cao sẽ cứng và giòn) khó có thể vào "khuôn".
Làm được như vậy là ta đã "thổi hồn" vào cây, biến chúng từ loài cây bình thường, tự nhiên thành cây cảnh nghệ thuật. Thân chính: thân chính là cơ sở của tạo hình của chậu cảnh cây xanh. Căn cứ vào thân chính ở dáng nào và đặc tính hình thái của từng loại cây mà người tạo dáng lựa chọn cho chủ đề tư tưởng. Do loài cây khác nhau mà có kiểu hình dáng thân khác nhau.
Bonsai thường được gọi là cây cảnh thu nhỏ lại, thịnh hành tại Nhật cũng như nhiều nước Đông Phương. Dưới con mắt của người Tây Phương, nghệ thuật cây cảnh hay "nghệ thuật trồng cây thu nhỏ" là một điều kỳ lạ, thậm chí được xem là "trái tự nhiên".
Tuy nhiên đối với người Nhật, nghệ thuật trồng cây cảnh thu nhỏ là một khoa thẩm mỹ, đồng thời trong một chừng mực nào đó, cũng là môn triết học. Người Nhật thường cho rằng: Trong khi giáo dục về đạo đức, thì nghệ thuật chơi cây kiểng cũng đã góp phần bổ túc cho nền giáo dục nầy. Thiếu niên nam nữ Nhật được giới thiệu, hướng dẫn trồng cây thu nhỏ ngay ở cấp tiểu học và trung học. Quan sát, người ta dễ dàng nhận biết được tính tình của một con người qua cây cảnh người ấy trồng. Cũng theo chiều hướng đó, có thể biết được tính tình của nhà hội họa qua bức tranh của họ. Trong thuật trồng cây, những cây cổ thụ tí hon trồng trong những chiếc chậu cạn, thu gọn trong khuôn khổ bé nhỏ, có nhiều giá trị. Người chơi cây cảnh loại nầy phải là những tay làm vườn lành nghề, say mê trong nghề và khiếu thẩm mỹ cao.
Một cây dù nhỏ bao nhiêu cũng là một "đài kỷ niệm thiên nhiên", có kích thước, vô cùng tinh tế, biến đổi tùy theo môi trường, tùy theo các loại rêu mọc dưới gốc, tùy theo mực nước ngập tràn bộ rễ, tùy theo bóng hòn non bộ được đặt bên cạnh. Đó là những chất liệu của Bonsai. Người phương Đông có truyền thống ca ngợi và tôn trọng tuổi già. Bonsai là cách thể hiện tuổi già cây cỏ được thu nhỏ và trang trọng. Không làm lạ khi thấy thuật chơi Bonsai thịnh hành khắp nhiều nước phương Đông. Người già lại rất thích Bonsai. Trong những gia đình danh vọng tại Nhật, người có nhiệm vụ chăm sóc cho những công trình Bonsai thường là chủ nhân ông. Vị nầy vừa là y sĩ của cây, đồng thời là một nhà luyện kim ngày nào cũng nghiêng mình trên mấy mẫu đất thử nghiệm nhỏ được dựng trong những lồng kính để nghiên cứu. Một người lương thiện không tránh khỏi những lời đàm tiếu của dư luận chung quanh khi bán một cây cảnh mà không có ý kiến của người đã ra công trồng và chăm bón. Người giữ cây có một quyền lực tinh thần vô cùng thiêng liêng đối với các tác phẩm của ông ta đã từng ra công vun quén. Phải được người giữ cây cho phép mới được định đoạt số phận của các chậu cảnh. Phân tán các cây cảnh chẳng khác gì bán mất con cái của người giữ cây. Cho nên tại Nhật không thấy những chợ bán cây cảnh và người mua cũng tự trọng khi tiếp xúc vói kẻ bán cây cảnh. Giá cây cảnh ở đây rất cao.Có nhiều cây cảnh tí hon sống hàng thế kỷ, truyền từ đời nọ sang đời kia. Cứ mỗi lần đông đến, vũ trụ lặng yên, người ta đem trồng xuống đất để chúng lấy lại sức. Đợi đến xuân về, lại đưa chúng vào chậu dành riêng. Để có được một chiếc chậu cho thật vừa ý của Bonsai, có khi người chơi phải tốn rất nhiều năm lục tìm khắp các cửa hàng đặc biệt, các tiệm bán đồ xưa.
Cây cảnh là một công trình nghệ thuật dài lâu, không chút gì giống cách trồng củ uất kim hương hay củ lan dạ hương. Cây trồng cảnh có khi lưu truyền từ đời cha đến đời con. Người ta thường thấy có người đã mất hết sự nghiệp trong làm ăn, mà vẫn không chịu bán mấy cây cảnh tí hon của cha để lại. Vì chính người cha cũng đã thừa hưởng cây cảnh nầy của tiền nhân.
Đối tượng trồng Bonsai
Ở tại Nhật Bản, cũng có những cây trồng chậu (hachiue) ra hoa thật đẹp, tuy nhiên, điều đó không quan hệ gì đến cây cảnh thu nhỏ của Bonsai cả. Hai cách trồng và cảm thụ không giống nhau. Cây cảnh thu nhỏ bất cứ mùa nào cũng đẹp cả, dù đang ra hoa hay trụi lá. Ra hoa có cái đẹp của hoa; trụi lá có cái đẹp của cảnh tiêu sơ. Thiên nhiên luôn luôn phơi bày vẻ đẹp hoàn thiện của nó; - nói theo G. Ohsawa -. Người nước ngoài khi đến thăm nước Nhật thường ngạc nhiên vì không thấy những hoa đẹp khắp nơi như họ thường tưởng tượng đến.
Họ thường suy nghĩ rằng: Nhật Bản vốn là xứ lý tưởng nhất của tất cả các loài hoa. Nhưng khi đến đây, tham quan nhiều nơi, ngay cả khu vườn của các gia đình vọng tộc, họ chẳng thấy mấy cành hoa, mà chỉ thấy nhiều lá, cỏ, rong rêu là những thứ ban đầu họ không để ý đến. Người Tây Phương thường nghĩ và thích màu sắc hoa rực rỡ; người Nhật thì đi tìm vẻ đẹp tiêu sái trong thiên nhiên, hoa lá, đá, sỏi, rong rêu. Dù thô sơ, nhưng nói lên nhiều điều. Một trong những lý do đặc biệt khiến người ta ít quan tâm đến hoa trong những chậu cảnh tí hon là không thể nào thu nhỏ kích thước của hoa, để hoà hợp với những thành phần khác của cây; hoa khó thu nhỏ hơn lá. Cây cảnh có đủ cỡ vì kích thước của chậu có cái rộng mỗi chiều đến 2m, nhưng phần lớn thì không quá cao hơn 30cm. Những năm gần lại đây, người ta lại có kiểu "chơi cây cảnh bỏ túi" với những cây tí hon trồng trong chậu, mỗi chiều chừng 3cm đến 4cm là cùng. Như vậy, những cây hoa trà trồng trong cảnh không hợp, vì quá lớn đã không thể thu nhỏ. Anh đào và hải đường (khaido) cũng bị loại vì lý do tương tự: công hoa quá dài không thu ngắn lại được. Tuy nhiên, một loại anh đào núi, mới được khám phá trong những năm gần đây - anh đào Phú Sĩ - lại có thể trồng làm cảnh. Vài loại cây khác, như bách nhật hồng (hồng tử vi) (sarusuberi) cũng không thích hợp, vì đến mùa hoa, cành vươn ra quá dài, phá mất đi thế thăng bằng của cây và lớp rêu phong cũng đã mất đi phần duyên dáng. Những ví dụ trên đây cho thấy vì chọn những cây nào có thể thu nhỏ lại mới trồng trong khung khổ Bonsai.
Nguyên tắc tạo dáng
Trong cấu trúc Bonsai, số cánh hoa, nhiều hoặc ít, cũng góp phần tạo dáng cho hoa. Cánh hoa càng nhiều thì càng dài và càng làm cho dáng hoa tăng phần tao nhã. Thông thường, Bonsai thường thích những cánh hoa lẻ; hoa chùm không quý bằng hoa đơn chiếc. Tính lẻ loi, cô độc thường đi đôi với tính khiêm nhường, suy tư và thận trọng. Hoa mai Nhật Bản thường được chọn trong chiều hướng đó. Trồng cây cảnh thu nhỏ là một nghệ thuật ít tốn kém mà một người kéo xe hay một người giàu có, dòng dõi quí tộc đều có thể thực hành được. Trong bất cứ phòng khách nào của người Nhật cũng có chỗ dành riêng cho chậu cảnh. Chậu cây đặt trên một chiếc bàn con, phải vừa tầm nhìn của khách ngồi trong phòng để khách thấy được toàn thể mà khỏi nhướn người lên hay phải ngước mắt. Như thế khách mới đủ bình tĩnh nhận xét nghệ thuật cây cảnh, đồng thời cũng xuyên qua đó biết được tâm tính và thị hiếu của chủ nhà, đả biểu hiện rõ nét trong chậu cây yêu quý của họ. Trong phòng khách dường như thiếu vắng những đồ đạc, tranh ảnh, sắc màu rực rỡ, mục đích là để cho khách để ý đến cây cảnh đặt nơi trang trọng của căn phòng. Những câu chuyện xã giao của họ cũng khởi đầu bằng chuyện cây cảnh. Thưởng thức một vật bé nhỏ như thế đòi hỏi phải có tầm nhìn tinh tế, sâu sắc. Thành thử người Tây Phương đến đây trong giao dịch, thù tiếp với phong cách nầy nếu không hiểu được chút gì về Bonsai, cũng là chuyện thiệt thòi, trở ngại. Chính vì thế, trong thị trường người Nhật không ghi danh mục Bonsai, vì theo họ, đưa một chậu Bonsai ra nước ngoài trong hoàn cảnh đó, khiến cho cây cô đơn vô cùng.
Phong cách đặc thù của Bonsai
Thật ra, Bonsai của Nhật cũng có những nét đặc thù. Nét nầy do ý thức của người trồng và sự quý mến cây cảnh. Người ta thường cho rằng nghệ thuật trồng cây cảnh nầy bắt nguồn từ Trung Quốc du nhập và đã có từ đời Đường, Tống. Người Nhật cũng thường du nhập văn hoá, nghệ thuật nước ngoài. Sự du nhập nầy nhiều khi quá đáng, theo quan sát nhiều người. Tuy nhiên, có một điều phải xác nhận là một khi du nhập, thì người Nhật đã biến đổi theo thần trí và hồn tính của mình. Bonsai cũng nằm trong phạm trù nầy. Những chậu cây cảnh Trung Quốc giống như những chậu diệp lan, thường thấy chưng bày trong nhiều khách sạn Âu Mỹ. Nhưng nhìn kỹ, sẽ thấy thiếu sinh khí, hỗn độn, không đặt đúng cách, thậm chí khôngai đoái hoài đến. Chậu cảnh của Nhật thì khác hẳn. Mỗi chậu đều tuân thủ quy luật chính xác, không lẫn lộn vào đâu được, nếu để bên cạnh Bonsai Trung Quốc. Nghệ nhân Bonsai rất am tường quy luật đó. Họ có thứ triết lý riêng cho Bonsai. Triết lý đó là: Chậu cây cảnh là tượng trưng cho sự khắc khổ và khôn ngoan. Hiểu được nghệ thuật đó đã không dễ. Cây cảnh thu nhỏ tiêu biểu cho một cây già lâu năm, đứng trơ trọi một mình trong vũ trụ bao la, có dáng dấp và phong thái rất đẹp. Tạo được hình ảnh như thế cho một cây bé nhỏ chỉ cao khoảng 30cm thường trồng bằng hạt quả là việc không phải dễ dàng gì! Nhưng đó lại là một điều cần thiết trong bước khởi đầu.
Theo người Nhật, bất cứ việc gì muốn được xem là toàn thiện thì không những phải hội đủ các đặc tính vật chất, mà còn mang một tính chất không thể cân lường, không thể nhìn thấy, hướng về cõi vô hình. Người Nhật gọi tên là "sabi". Thuật ngữ "sabi" thật khó dịch ra đúng nghĩa. Có người tạm dịch là "patine", tức là lớp meo mốc, rêu phong, bám vào vật bằng đồng cũ, vào tấm bia cổ. Nhưng "sabi" lại có tính chất tinh tế hơn. Những bậc thầy về Bonsai có nhiều bí quyết để tạo ra nét rêu phong như thế. Không thể dán vào tùy tiện được. Gọi đó là nghề gia truyền, quả không ngoa. Thị trường cây cảnh Mỹ cũng bán sabi! Nhưng đó là giả tạo. Họ không hiểu ý nghĩa của sabi trong nghệ thuật. Đừng nói đến việc tạo sabi đúng phẩm chất. Chúng ta có thể hiểu thêm, khi đi sâu vào. Trong Bonsai Nhật, đôi loại vỏ cây sù sì nhưng mềm tự nhiên có được rêu phong, nhưngphần đông lại không có. Một cây hoàn hảo về mọi mặt trong phép trồng nầy, nhưng thiếu điểm tạo rêu phong nầy tức là chưa đạt. Bonsai thường mang tính "già nua". Có nhiều đặc tính góp phần tạo ra cảm giác "già nua cực độ". Muốn vậy, cần có thời gian. Từ khimới mọc cho đến khi chết, không một bộ phận nào của cây cỏ giữ nguyên tỉ lệ kích thước, vóc dáng, màu sắc của lá, của rễ, của cành. Những thay đổi đó thường gây trở ngại trong việc tái tạo những đường nét chi li trong một mô hình thu nhỏ. Trong phạm vi nầy, người Nhật thường có những "mặc ước" gọi là "ngoại luật" (licences) về thẩm mỹ. Điều nầy cũng giống như ngoại luật trong thi ca. Chơi cây cảnh cũng là một nghệ thuật. Trong phạm vi Bonsai cũng thế. Chẳng hạn như người ta có thể châm chước một cây cảnh có lá không tương xứng với thân và cành vì tương đối lớn, mặc dù đã tìm mọi cách làm cho chúng nhỏ lại và tạo lớp rêu phong cần thiết. Người Nhật cũng chấp nhận một thân cây to đến độ nào đó, quá khổ nếu so với chiều cao của cây. Trong nghệ thuật Nhật, thường có những đột phá đó. Họ đã quen với tính "không tỉ lệ". Cũng như đọc thơ Haiku, xem loại kịch "Nôh". Thơ thì quá gọn, kịch có khi không lời. Cây cảnh Nhật không ra ngoài tính chất nghệ thuật đó.
Tính tự nhiên của Bonsai
Một cây cảnh toàn hảo không mang dấu vết gì, kể cả những vết uốn nắn mà nó phải trải qua. Người ta thường ví điều nầy như một người đàn bà từng sống trong khuôn khổ, luôn luôn giữ nụ cười đôn hậu, không để lộ nét khổ đau. Một hiệp sĩ từ chiến trường về phải quên đi những thương tích trên mình, không kể lể với ai. Cây cảnh cũng tương tự như vậy. Không để lại dấu vết nào về thương tích cả. Nghệ thuật Bonsai trọng về tự nhiên. Vỏ cây sần sùi, lồi lõm không đều, mặc dù phủ lớp rêu phong, nhưng phải là không có sự chắp nối, chiết cắt. Những cành vô dụng phải được cắt bỏ đi từ khi mới nhú ra, chẳng khác nào chữa trị tật xấu trẻ em. Tất cả thành phần trong cây cảnh phải hoà hợp, cành không nên già hơn rễ, rễ không già hơn cành. Khác đi, tức là giả tạo.
Một số nét kỹ thuật nhấn mạnh điểm nầy. Quan sát thì rõ. Đầu cây càng già thì càng tròn, trông giống như cái tán. Trái lại cây còn non thì đầu nhọn, được hiểu như tham vọng chưa được thoả mãn, trông thật trơ trẻn. Cũng như người, đến một lúc nào, cây cũng phải biết "an phận" của mình. Không gì khó coi hơn, một cây đã già nua mà "không biết nhẫn", cứ chìa đầu ra, hếch mặt lên trời. Đó là mất quân bình. Cũng là kém khôn ngoan, đã chống lại minh triết của tạo hoá. Chơi cây cảnh phải hiểu nguyên tắc nầy. Muốn tạo cho phần trên cùng của cây bé nhỏ có dáng tròn xinh xắn, cần phải tác động bằng nhiều cách. Hiệu quả tốt nhất là độ cạn của chậu. Các cành đều lệ thuộc ít nhiều vào rễ, vì rễ nuôi cành. Rễ đâm thẳng xuống, thì đầu cây phải nhọn. Rễ đâm ngang thì đầu bằng.
Khi mùa đông đến, người ta bứng cây ra đặt xuống đất trong vườn theo phương pháp hồi xuân, những cành trên thường chỉa lên trời vì đâm rễ xuống. Hiểu nguyên tắc nầy sẽ tạo nên tán tròn. Với những ý niệm kể trên, một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng trong Bonsai phải thể hiện được thế quân bình thiêng liêng trong vũ trụ. Đầu trên của cây hơi cong tròn, trông vẻ khiêm tốn. Nếu không, cây sẽ mất hết ý nghĩa. Tuy nhiên, người ta cũng thấy đột phá một vài cây cổ thụ có những cành bên trên ngả mạnh về sau. Trông tưởng như những trận cuồng phong làm cho xô dạt về một phía. Đó là thể hiện sự khổ đau của những người không muốn an phận, thủ thường. Có những người vào tuổi xế chiều vẫn còn bon chen, mưu danh đoạt lợi. Họ sẽ bị đánh bạt như loại cây nầy. Ngũ hành trong vũ trụ bẻ gãy họ. Người Nhật ít thích kiểu dáng nầy.
Những cách trồng Bonsai
Ở tại Nhật Bản, cũng có những cây trồng chậu (hachiue) ra hoa thật đẹp, tuy nhiên, điều đó không quan hệ gì đến cây cảnh thu nhỏ của Bonsai cả. Hai cách trồng và cảm thụ không giống nhau. Cây cảnh thu nhỏ bất cứ mùa nào cũng đẹp cả, dù đang ra hoa hay trụi lá. Ra hoa có cái đẹp của hoa; trụi lá có cái đẹp của cảnh tiêu sơ. Thiên nhiên luôn luôn phơi bày vẻ đẹp hoàn thiện của nó; - nói theo G. Ohsawa -. Người nước ngoài khi đến thăm nước Nhật thường ngạc nhiên vì không thấy những hoa đẹp khắp nơi như họ thường tưởng tượng đến.
Họ thường suy nghĩ rằng: Nhật Bản vốn là xứ lý tưởng nhất của tất cả các loài hoa. Nhưng khi đến đây, tham quan nhiều nơi, ngay cả khu vườn của các gia đình vọng tộc, họ chẳng thấy mấy cành hoa, mà chỉ thấy nhiều lá, cỏ, rong rêu là những thứ ban đầu họ không để ý đến. Người Tây Phương thường nghĩ và thích màu sắc hoa rực rỡ; người Nhật thì đi tìm vẻ đẹp tiêu sái trong thiên nhiên, hoa lá, đá, sỏi, rong rêu. Dù thô sơ, nhưng nói lên nhiều điều. Một trong những lý do đặc biệt khiến người ta ít quan tâm đến hoa trong những chậu cảnh tí hon là không thể nào thu nhỏ kích thước của hoa, để hoà hợp với những thành phần khác của cây; hoa khó thu nhỏ hơn lá.
Cây cảnh có đủ cỡ vì kích thước của chậu có cái rộng mỗi chiều đến 2m, nhưng phần lớn thì không quá cao hơn 30cm. Những năm gần lại đây, người ta lại có kiểu "chơi cây cảnh bỏ túi" với những cây tí hon trồng trong chậu, mỗi chiều chừng 3cm đến 4cm là cùng.Như vậy, những cây hoa trà trồng trong cảnh không hợp, vì quá lớn đã không thể thu nhỏ. Anh đào và hải đường (khaido) cũng bị loại vì lý do tương tự: công hoa quá dài không thu ngắn lại được. Tuy nhiên, một loại anh đào núi, mới được khám phá trong những năm gần đây - anh đào Phú Sĩ - lại có thể trồng làm cảnh. Vài loại cây khác, như bách nhật hồng (hồng tử vi) (sarusuberi) cũng không thích hợp, vì đến mùa hoa, cành vươn ra quá dài, phá mất đi thế thăng bằng của cây và lớp rêu phong cũng đã mất đi phần duyên dáng. Những ví dụ trên đây cho thấy vì chọn những cây nào có thể thu nhỏ lại mới trồng trong khung khổ Bonsai.
Trong cấu trúc Bonsai, số cánh hoa, nhiều hoặc ít, cũng góp phần tạo dáng cho hoa. Cánh hoa càng nhiều thì càng dài và càng làm cho dáng hoa tăng phần tao nhã. Thông thường, Bonsai thường thích những cánh hoa lẻ; hoa chùm không quý bằng hoa đơn chiếc. Tính lẻ loi, cô độc thường đi đôi với tính khiêm nhường, suy tư và thận trọng. Hoa mai Nhật Bản thường được chọn trong chiều hướng đó. Trồng cây cảnh thu nhỏ là một nghệ thuật ít tốn kém mà một người kéo xe hay một người giàu có, dòng dõi quí tộc đều có thể thực hành được. Trong bất cứ phòng khách nào của người Nhật cũng có chỗ dành riêng cho chậu cảnh. Chậu cây đặt trên một chiếc bàn con, phải vừa tầm nhìn của khách ngồi trong phòng để khách thấy được toàn thể mà khỏi nhướn người lên hay phải ngước mắt. Như thế khách mới đủ bình tĩnh nhận xét nghệ thuật cây cảnh, đồng thời cũng xuyên qua đó biết được tâm tính và thị hiếu của chủ nhà, đả biểu hiện rõ nét trong chậu cây yêu quý của họ.
Trong phòng khách dường như thiếu vắng những đồ đạc, tranh ảnh, sắc màu rực rỡ, mục đích là để cho khách để ý đến cây cảnh đặt nơi trang trọng của căn phòng. Những câu chuyện xã giao của họ cũng khởi đầu bằng chuyện cây cảnh. Thưởng thức một vật bé nhỏ như thế đòi hỏi phải có tầm nhìn tinh tế, sâu sắc. Thành thử người Tây Phương đến đây trong giao dịch, thù tiếp với phong cách nầy nếu không hiểu được chút gì về Bonsai, cũng là chuyện thiệt thòi, trở ngại. Chính vì thế, trong thị trường người Nhật không ghi danh mục Bonsai, vì theo họ, đưa một chậu Bonsai ra nước ngoài trong hoàn cảnh đó, khiến cho cây cô đơn vô cùng. Thật ra, Bonsai của Nhật cũng có những nét đặc thù. Nét nầy do ýthức của người trồng và sự quý mến cây cảnh. Người ta thường cho rằng nghệ thuật trồng cây cảnh nầy bắt nguồn từ Trung Quốc du nhập và đã có từ đời Đường, Tống. Người Nhật cũng thường du nhập văn hoá, nghệ thuật nước ngoài. Sự du nhập nầy nhiều khi quá đáng, theo quan sát nhiều người.
Tuy nhiên, có một điều phải xác nhận là một khi du nhập, thì người Nhật đã biến đổi theo thần trí và hồn tính của mình. Bonsai cũng nằm trong phạm trù nầy. Những chậu cây cảnh Trung Quốc giống như những chậu diệp lan, thường thấy chưng bày trong nhiều khách sạn Âu Mỹ. Nhưng nhìn kỹ, sẽ thấy thiếu sinh khí, hỗn độn, không đặt đúng cách, thậm chí khôngai đoái hoài đến. Chậu cảnh của Nhật thì khác hẳn. Mỗi chậu đều tuân thủ quy luật chính xác, không lẫn lộn vào đâu được, nếu để bên cạnh Bonsai Trung Quốc. Nghệ nhân Bonsai rất am tường quy luật đó. Họ có thứ triết lý riêng cho Bonsai. Triết lý đó là: Chậu cây cảnh là tượng trưng cho sự khắc khổ và khôn ngoan. Hiểu được nghệ thuật đó đã không dễ. Cây cảnh thu nhỏ tiêu biểu cho một cây già lâu năm, đứng trơ trọi một mình trong vũ trụ bao la, có dáng dấp và phong thái rất đẹp. Tạo được hình ảnh như thế cho một cây bé nhỏ chỉ cao khoảng 30cm thường trồng bằng hạt quả là việc không phải dễ dàng gì! Nhưng đó lại là một điều cần thiết trong bước khởi đầu.
Theo người Nhật, bất cứ việc gì muốn được xem là toàn thiện thì không những phải hội đủ các đặc tính vật chất, mà còn mang một tính chất không thể cân lường, không thể nhìn thấy, hướng về cõi vô hình. Người Nhật gọi tên là "sabi". Thuật ngữ "sabi" thật khó dịch ra đúng nghĩa. Có người tạm dịch là "patine", tức là lớp meo mốc, rêu phong, bám vào vật bằng đồng cũ, vào tấm bia cổ. Nhưng "sabi" lại có tính chất tinh tế hơn. Những bậc thầy về Bonsai có nhiều bí quyết để tạo ra nét rêu phong như thế. Không thể dán vào tùy tiện được. Gọi đó là nghề gia truyền, quả không ngoa. Thị trường cây cảnh Mỹ cũng bán sabi! Nhưng đó là giả tạo. Họ không hiểu ý nghĩa của sabi trong nghệ thuật. Đừng nói đến việc tạo sabi đúng phẩm chất. Chúng ta có thể hiểu thêm, khi đi sâu vào.
Trong Bonsai Nhật, đôi loại vỏ cây sù sì nhưng mềm tự nhiên có được rêu phong, nhưngphần đông lại không có. Một cây hoàn hảo về mọi mặt trong phép trồng nầy, nhưng thiếu điểm tạo rêu phong nầy tức là chưa đạt. Bonsai thường mang tính "già nua". Có nhiều đặc tính góp phần tạo ra cảm giác "già nua cực độ". Muốn vậy, cần có thời gian. Từ khimới mọc cho đến khi chết, không một bộ phận nào của cây cỏ giữ nguyên tỉ lệ kích thước, vóc dáng, màu sắc của lá, của rễ, của cành. Những thay đổi đó thường gây trở ngại trong việc tái tạo những đường nét chi li trong một mô hình thu nhỏ. Trong phạm vi nầy, người Nhật thường có những "mặc ước" gọi là "ngoại luật" (licences) về thẩm mỹ. Điều nầy cũng giống như ngoại luật trong thi ca. Chơi cây cảnh cũng là một nghệ thuật. Trong phạm vi Bonsai cũng thế. Chẳng hạn như người ta có thể châm chước một cây cảnh có lá không tương xứng với thân và cành vì tương đối lớn, mặc dù đã tìm mọi cách làm cho chúng nhỏ lại và tạo lớp rêu phong cần thiết.
Người Nhật cũng chấp nhận một thân cây to đến độ nào đó, quá khổ nếu so với chiều cao của cây. Trong nghệ thuật Nhật, thường có những đột phá đó. Họ đã quen với tính "không tỉ lệ". Cũng như đọc thơ Haiku, xem loại kịch "Nôh". Thơ thì quá gọn, kịch có khi không lời. Cây cảnh Nhật không ra ngoài tính chất nghệ thuật đó. Một cây cảnh toàn hảo không mang dấu vết gì, kể cả những vết uốn nắn mà nó phải trải qua. Người ta thường ví điều nầy như một người đàn bà từng sống trong khuôn khổ, luôn luôn giữ nụ cười đôn hậu, không để lộ nét khổ đau. Một hiệp sĩ từ chiến trường về phải quên đi những thương tích trên mình, không kể lể với ai. Cây cảnh cũng tương tự như vậy. Không để lại dấu vết nào về thương tích cả.
Nghệ thuật Bonsai trọng về tự nhiên. Vỏ cây sần sùi, lồi lõm không đều, mặc dù phủ lớp rêu phong, nhưng phải là không có sự chắp nối, chiết cắt. Những cành vô dụng phải được cắt bỏ đi từ khi mới nhú ra, chẳng khác nào chữa trị tật xấu trẻ em. Tất cả thành phần trong cây cảnh phải hoà hợp, cành không nên già hơn rễ, rễ không già hơn cành. Khác đi, tức là giả tạo.
Một số nét kỹ thuật nhấn mạnh điểm nầy. Quan sát thì rõ. Đầu cây càng già thì càng tròn, trông giống như cái tán. Trái lại cây còn non thì đầu nhọn, được hiểu như tham vọng chưa được thoả mãn, trông thật trơ trẻn. Cũng như người, đến một lúc nào, cây cũng phải biết "an phận" của mình. Không gì khó coi hơn, một cây đã già nua mà "không biết nhẫn", cứ chìa đầu ra, hếch mặt lên trời. Đó là mất quân bình. Cũng là kém khôn ngoan, đã chống lại minh triết của tạo hoá. Chơi cây cảnh phải hiểu nguyên tắc nầy. Muốn tạo cho phần trên cùng của cây bé nhỏ có dáng tròn xinh xắn, cần phải tác động bằng nhiều cách. Hiệu quả tốt nhất là độ cạn của chậu. Các cành đều lệ thuộc ít nhiều vào rễ, vì rễ nuôi cành. Rễ đâm thẳng xuống, thì đầu cây phải nhọn. Rễ đâm ngang thì đầu bằng.
Khi mùa đông đến, người ta bứng cây ra đặt xuống đất trong vườn theo phương pháp hồi xuân, những cành trên thường chỉa lên trời vì đâm rễ xuống. Hiểu nguyên tắc nầy sẽ tạo nên tán tròn. Với những ý niệm kể trên, một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng trong Bonsai phải thể hiện được thế quân bình thiêng liêng trong vũ trụ. Đầu trên của cây hơi cong tròn, trông vẻ khiêm tốn. Nếu không, cây sẽ mất hết ý nghĩa. Tuy nhiên, người ta cũng thấy đột phá một vài cây cổ thụ có những cành bên trên ngả mạnh về sau. Trông tưởng như những trận cuồng phong làm cho xô dạt về một phía. Đó là thể hiện sự khổ đau của những người không muốn an phận, thủ thường. Có những người vào tuổi xế chiều vẫn còn bon chen, mưu danh đoạt lợi. Họ sẽ bị đánh bạt như loại cây nầy. Ngũ hành trong vũ trụ bẻ gãy họ. Người Nhật ít thích kiểu dáng nầy.
NGHỆ THUẬT CẮM HOA
Trong thiên nhiên, hoa được xem là "sứ giả của cái đẹp" trong vạn vật; hoa biểu trưng cho sức sống nở rộ và sự sống tràn đầy. Cắm hoa là một nghệ thuật kết hợp khéo léo giữa nghệ thuật và những bông hoa; vì thế nghệ thuật cắm hoa trở nên thanh tao, lịch sự trong trang trí, phòng ăn, chính thất.
Ngày nay chiêm ngưỡng những tác phẩm cắm hoa, tìm hiểu và nắm vững được nghệ thuật cắm hoa đã trở thành ước muốn ngày càng mãnh liệt của nhiều người, nhất là phái nữ. Tuy nhiên, nắm vững được nghệ thuật cắm hoa đã không là chuyện giản đơn. Nó đòi hỏi người cắm hoa phải thông qua quan sát trong thực tế, nắm bắt được "cái thần" của hoa lá, hiểu được quy luật biến hoá của cây cỏ, hoà đồng của màu sắc.
Một tác phẩm cắm hoa có nghệ thuật cao là một tác phẩm truyền đạt được vẻ đẹp của hoa lá đến cho người thưởng thức. Từ trước, nghệ thuật cắm hoa có nhiều trường phái. Do có sự khác nhau về khu vực, môi trường, bối cảnh văn hoá, không gian phát triển, cho nên nghệ thuật cắm hoa cũng khác nhau. Nghệ thuật nầy bắt nguồn từ 3 nơi khác nhau: cắm hoa kiểu Nhật, cắm hoa kiểu Trung Quốc, cắm hoa kiểu Tây Phương.
Hoa trong tư tưởng Thiền thường mang tính đặc biệt. Trong cách hiểu và cách nhìn, đã có những tương thông đặc biệt.
Như Phật thoại "Niêm hoa vi tiếu". Khi đức Phật trên núi Linh Thứu xoay một bông hoa trên đỉnh đầu các ngón tay, rồi đưa ra trước tăng chúng. Hết thảy đều im lặng. Chỉ duy vị đại đệ tử của ngài là Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasyapa) mỉm cười. Phật nói: "Ta có con mắt của Chánh Pháp, diệu tâm của Niết bàn, thực tướng của vô tướng. Pháp nầy siêu việt ngôn từ, nay trao truyền Ca Diếp". Từ đó khởi đầu việc truyền pháp từ đức Thích Ca Mâu Ni cho các đệ tử. Niêm hoa (Nenge) nghĩa là " cầm một bông hoa". "Cầm một bông hoa" tỏ ra rằng Phật tán thưởng bông hoa ấy; hoa với Ngài là một. Quan sát việc nầy Ma Ha Ca Diếp mỉm cười tán thưởng cái "nhất như" đó. Vô Môn phiếm bàn: "Nếu hết thảy Thánh chúng khi đó đều mỉm cười thì Phật trao cho ai? Hoặc hôm đó Ca Diếp không mỉm cười, thì đức Thích Ca làm sao trao Pháp?" Nhìn qua chỉ là việc cầm một bông hoa, không hơn, không kém. "Cứ làm đi!" là một Thiền ngữ quan trọng.
Nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc
Lịch sử trồng hoa của người Trung Quốc vốn có từ lâu đời. Thời nào, vùng nào cũng có nhiều sách viết về hoa. Những ghi chép trong di tích cổ cũng có miêu tả về cách trồng hoa. Bên cạnh việc trồng hoa, nghệ thuật cắm hoa ở đây cũng có lịch sử và truyền thống lâu đời. Thoạt đầu, nghệ thuật về hoa chỉ hạn chế ở những khu trồng hoa cảnh, bó hoa, hoa cài lên tóc. Về sau, có tục dâng hoa cúng Phật, cúng Thần. Trong "Nam Sử" thời Lục Triều có ghi chép về nghệ thuật cắm hoa. Thời đó, các loại hoa và cây chính là: tùng, bách, trúc, thủy tiên.
Con người dùng hoa để nói lên một số đạo nghĩa. Thời đó, hoa chỉ được trồng trong các loại chậu; không có bình cắm. Vào đời Đường, nghệ thuật về hoa đã phát triển mạnh, nghệ thuật cắm hoa đã đi vào cung đình. Nhiều sách viết về nghệ thuật cắm hoa cũng được xuất bản; nổi tiếng là cuốn "Hoa cửu tích".
Đời Tống, nghệ thuật cắm hoa trong bình được cải thiện hơn. Đến đời Minh, thì nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc đã lên đến tột đỉnh, lưu hành đến nay. Những sách nghiên cứu về nghệ thuật cắm hoa trong thời kỳ nầy phải kể đến "Bình hoa phổ", "Bình hoa tam thuyết", "Bình sử". Riêng về "Bình Sử" được truyền sang Nhật, dịch nhiều lần trở thành tài liệu hướng dẫn nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản.
Ngoài việc coi trọng về hình dáng, màu sắc và mùi hương của hoara, nghệ thuật cắm hoa kiểu Trung Quốc còn chú trọng đến "hoa đức". Theo họ, hình dáng, màu sắc và mùi hương chỉ là "hữu hình"; còn "hoa đức" thì lại trừu tượng, thường mang ý nghĩa tượng trưng; chẳng hạn như lấy sự mềm mại của hoa để so sánh với vẻ đẹp yểu điệu của nữ giới; đồng thời, cũng cách chọn hoa những để mô tả đức độ của bậc chính nhân, quân tử. Điều nầy đã trở thành một đặc tính riêng của nghệ thuật cắm hoa Trung Quốc.
Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản
Hoa đạo Nhật Bản bắt nguồn từ Trung Quốc, vào nước nầy đồng thờivới nghi thức dâng hoa cúng Phật. Người Nhật đã nhanh chóng biến thành nghệ thuật riêng nước mình, trở thành nghệ thuật truyền thống. Trong thời gian lâu dài, nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản dùng trong tế tự đền miếu, đàn tế, lưu hành trong giới tăng lữ. Đến thế kỷ VII, việc dâng hoa thờ được phổ biến trong lễ cúng dân gian, nhưng nghệ thuật về hoa cỏ vẫn chưa thịnh hành. Vào thế kỷ X, dùng hoa chẳng những trong lễ hội, mà còn để trang trí nhà cửa. Vào thế kỷ XIII, trong các đền miếu đã bắt đầu xuất hiện phương pháp cắm hoa và tạo hoa hình sen.
Tới thế kỷ thứ XIV, giới quý tộc Nhật có những ngày lễ hội thưởng hoa hằng năm gọi là "Hoa ngự hội" (thi cắm hoa), coi cắm hoa như là một môn nghệ thuật tiêu khiển, nhàn dật; kể từ đó trở đi, cắm hoa đã thoát dần màu sắc tôn giáo thuần túy, bước vào cung đình và các gia đình võ sĩ, quý tộc, trở thành một sản phẩm nghệ thuật để trang trí và xuất hiện trong những lễ hội.
Cũng từ đó hình thức cắm hoa bắt đầu được quy phạm hóa, vừa coi trọng chủ đề tư tưởng, vừa tôn sùng thiên nhiên; họ thường dùng 7 - 9 cành hoa, kết hợp với một số lá: hình thức "lập hoa" thời kỳ đầu tiên tại Nhật.
Vào thế kỷ XV - XVI, cắm hoa đã được phổ cập rộng rãi, nghệ thuật cắm hoa có những bước phát triển mạnh mẽ, phong cách nghệ thuật nầy cũng đã có những bước biến đổi tuơng đối lớn; ngoài hình thức "lập hoa" đã hoàn thiện, lại còn có hình thức "sinh hoa". Đây là hình thức cắm 3 cành hoa chính, tượng trưng cho Trời, Đất, Người.
Tác phẩm thường đơn giản, trong sáng, thanh nhã, được phổ cập và phát triển mạnh mẽ. Như thế, triết lý và tư tưởng từng bước đi vào nghệ thuật cắm hoa. Vào cuối thế kỷ XVII, "Bình sử" xâm nhập Nhật Bản và được phát huy, tạo thành "trường phái Hoằng Ðạo". Sau thế kỷ XVIII, Nhật Bản tiếp tục xuất hiện trường phái cắm hoa "Tự do"; trường phái nầy không giống như "lập hoa" và "sinh hoa", mà dựa vào trực giác và cảm giác, kết hợp với nhau tùy ý niệm của mỗi người, không quá câu nệ vào hình thức nào. Đến thế kỷ XIX, nghệ thuật cắm hoa của Nhật vào giai đoạn thoái trào, do ảnh hưởng của xã hội và chính trị thời đó; mãi cho đến năm 1887, mới được hồi phục trở lại; tuy nhiên, trong giai đoạn nầy, với việc giao lưu cùng nhiều dòng nghệ thuật nước ngoài, nhất là ảnh hưởng của văn hoá Tây Phương cho nên phong trào cắm hoa của Nhật lại chuộng về kiểu "Thịnh hoa" (tức là kiểu Moribana).
Hoa đạo của Nhật từ đó cũngđã chuyển hướng, từ cắm hoa trong bình cao lại chuyển sang bình thấp và nông. Kiểu cắm hoa Moribana có thể được coi là bước đột phá trong lịch sử cắm hoa Nhật Bản; tuy nhiên bước đột phá nầy vẫn chưa làm cho giới thưởng thức hoa và nghiên cứu cắm hoa Nhật bản thoả mãn. Vào thế kỷ XX, hoa đạo Nhật Bản có chuyển hoá khác, mang tính chất lịch sử; đó là sự xuất hiện kiểu cắm hoa "Tự do" (Free style arrangement), hay còn gọi là kiểu cắm hoa "tiền vệ" (Avant - garde Ikebana). Ở một mức độ nào đó, kiểu cắm hoa nầy có những đường nét gần gủi với phong cách cắm hoa hiện đại của Tây Phương. Với người Nhật, chính lối nầy đã mang lại cho nghệ thuật cắm hoa Nhật trở nên rực rỡ, chói sáng. Người Nhật thường truyền tụng những giai thoại về nhìn hoa, thưởng hoa và vẽ hoa.
Một bậc thầy hoa cảnh Nhật Bản ngày nọ đi xem triển lãm hội họa. Ông đứng nhìn bức tranh vẽ nhánh hoa huệ giữa một khu vườn. Saukhi ngắm nghía hồi lâu, vị hoa sư bèn hỏi tác giả của bức tranh:
- Có phải ông vẽ phỏng theo một nhánh hoa mà người ta cắt bán cho ông không?
- Thưa thầy, đúng vậy. Nhưng sao thầy biết?
- Có cái gì thiếu vắng ở nhánh hoa của ông khiến tôi thấy được đây là hoa chết chứ không phải là hoa sống. Cái thiếu vắng đó là quầng sáng vô hình của sự sống, tuy tôi không cắt nghĩa được nhưng cảm thấy rõ ràng.
- Thưa thầy, quả cặp mắt của thầy không phải là mắt của người phàm. Trong giai thoại hoa Nhật, có hàng ngàn mẫu chuyện như vậy.
Nói chung, người sành về hoa có thể nhìn suốt từ trước đến sau, từ nội tâm ra ngoại cảnh.
Nghệ thuật cây cảnh Tây Phương
Nghệ thuật cây cảnh Tây Phương bắt nguồn từ khu vực ven Địa Trung Hải và phát triển đến ngày nay, đã trở thành một trong những trào lưu nghệ thuật cắm hoa chính - cắm hoa theo phong cách Tây Phương. Lịch sử cắm hoa ở đây vốn có từ lâu đời. Sách sử và di tích khảo cổ cho biết: Ngay từ những năm 2,000 trước Công nguyên, thời kỳ của nền "Văn minh sông Nil", tại Ai Cập đã có những bức họa trên tường đá, mô tả việc dùng hoa sen và hoa thủy tiên trong cách trang trí. Cũng có người dùng những loại hũ có miệng hẹp để cắm hoa. Trong Kim Tự Tháp của Ai Cập, người ta cũng đã phát hiện ra dấu tích của một loài hoa hoá thạch. Đó là loại tường vi, rất phổ biến trên đất nước nầy.
Phương pháp cắm hoa trong giai đoạn nầy còn thô sơ: vừa không có vẻ đẹp về đường nét, lại vừa không có những kết hợp nhiều loại hoa bên cạnh nhau. Từ thời kỳ Cổ Hy Lạp cho đến thời Hậu Kỳ Cổ La Mã, người ta thường dùng hoa vàng để trang trí trong những lễ hội. Thiếu nữ cũng thường đội những vương miện được kết bằng hoa hồng. Kiểu dáng nầy biểu trưng cholòng chung thủy trong thuật yêu đương. Thành thử trong nghệ thuật cắm hoa và kết hoa Tây Phương, kiểu nầy vẫn còn bảo lưu cho đến ngày nay, với những thay đổi qua từng thời đại. Có hai kiểu cắm hoa trong giai đoạn nầy: cắm hoa ở lọ và cắm hoa trong lẵng.
Vào thế kỷ XIX, hạng quý tộc, thượng lưu Tây Phương bắt đầu quan tâm và say mê nghệ thuật cắm hoa, từ việc xử lý nghệ thuật cắm hoa cho đến cách phối hợp màu sắc nhiều loại hoa. Ngoài ra, cũng có những nghệ nhân chế tác các bình hoa, chậu hoa đủ kiểu dáng; có người lại chuyên nghiên cứu về không gian cắm hoa. Họ đề ra những nguyên tắc về cắm hoa, với nhiều trường phái. Tính ra có 32 trường phái cắm hoa khác nhau. Nhờ phát triển, nên cắm hoa đã trở thành một lối trang trí và thưởng ngoạn trong bất cứ hội họp, tiệc tùng, nhàn đàm. Vào đầu thế kỷ XX, nhà nghệ thuật học Gertrude Jekyll cho xuất bản cuốn "Flower decoration in the home" có tác dụng gợi mở rấtlớn trong nghệ thuật cắm hoa sau nầy. Đây là nền tảng của nghệ thuật cắm hoa Tây Phương hiện đại. Những thập niên gần lại đây, nghệ thuật cắm hoa Tây Phương đã chịu ảnh hưởng của Hoa đạo Nhật cũng như Thiền Phái. Do đó, đã nẩy sinh những kiểu cắm hoa đa dạng, thiên về triết lý.
Nghệ thuật cắm hoa cổ điển chỉ hạn chế ở chỗ căm hoa vào bình. Người cắm hoa chỉ chọn một cành ít hoa, rồi tạo hình và chọn độ dài thích hợp. Hình thức cắm hoa trong thời đó còn đơn giản, thuần phác, thường chỉ giữ lại kiểu dáng của ho, chứ không gia công về mặt kỹ thuật và nghệ thuật. Lọ hoa đa phần bằng gốm; ngoài ra, trong giới quý tộc, vương tước thì dùng những thứ lọ bằng ngọc thạch, thủy tinh. Trong những bức hoa cổ điển cho thấy: màu sắc thiên về sự rực rỡ, chói chang.
Trong nghệ thuật cắm hoa cổ điển Trung Quốc thường tạo ra những khoảng trống thích hợp giữa các cành hoa với nhau; nhờ thế tạo nét thanh nhã. Nghệ thuật cổ điển Nhật thường tận dụng cành lá đơn giản, thể hiện rõ đường nét của cành hoa. Cắm hoa cổ điển Tây Phương thích sự đàng bệ, dùng hoa nhiều, bình to. Nghệ thuật cắm hoa hiện đại không những được sáng tác dựa theo nguyên tắc cắm hoa cơ bản, cũng không đơn thuần thể hiện sự hoà hợp của thiên nhiên, mà chủ đích là để biểu đạt quan niệm và tư tưởng của cá nhân mỗi người.
Sáng tạo là chủ điểm của nghệ nhân cắm hoa hiện nay; trong bất cứ cành lá được sắp xếp bên cạnh nhau, kể cả những khoảng trống không gian cũng đều muốn gửi gắm một ý tưởng riêng tư của mình. Ngôn ngữ của từng cây hoa cũng được họ chú tâm trong việc chọn lọc. Trong nghệ thuật cắm hoa hiện đại, cần phải có trí tưởng tượng lựa chọn cành hoa nào, thiết kế ra sao, cách tạo hình theo chủ điểm gì? Với họ, chậu hoa là nguồn thơ, là nguồn tư tưởng, triết học.Mỗi công trình cắm hoa phải là một giá trị biểu cảm. Phải bỏ nhiều thì giờ suy nghiệm, cân nhắc, trước khi bắt tay vào. Thành thử, những trường phái "cắm hoa tự do", "cắm hoa tiền vệ" và "cắm hoa trừu tượng" vốn là 3 khuynh hướng cắm hoa chính hiện nay.
XÂY DỰNG NON BỘ
Đá: Trong các lập vườn cảnh, hòn non bộ cũng là một trong những thể tài quan trọng và được truyền tụng từ ngàn năm lại đây. Non bộ còn được gọi là "núi giả" (giả sơn) hay "bồn cảnh", vì thông thường khi nào tạo non bộ cũng dựng trên bể nước. Nước lưu thông hay nước đứng. Đây cũng là một thành phần đặc sắc nhất của nghệthuật vườn hoa Việt Nam và Trung Quốc.
Theo Lâm Ngữ Đường thì: "Đá tượng trưng cho sự trường thọ, mà người TrungQuốc thì lại yêu tất cả cái gì trường tồn. Thứ nhất là về phương diện nghệ thuật, nó có vẻ khôi vĩ, hùng kỳ, chanh vanh, cổ nhã. Ngoài ra nó còn cho ta một cảm giác chon von. Một mỏm đá cao cả trăm thước dựng đứng trên mặt đất, nhìn nó ai mà không rùng rợn, như trước cảnh nguy hiểm, cho nên người Trung Hoa gọi đó là "nguy". Người chơi đá thường chú ý đến màu sắc, vân, mắt đá (mịn hay không mịn) và có khi cả tới tiếng kêu khi gõ vào đá nữa. Đá càng nhỏ thì lại càng chú ý đến cái vân và cái mặt mịn của nó. Nhiều người thu thập loại nghiên mực và con dấu bằng đá, thành thử nghệ thuật chơi đá càng phát triển thêm.
Người Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam trong khi bố cục cây cảnh Bonsai thường nhìn sự vật với con mắt tín ngưỡng. Cơ cấu đối với người xưa không ngoài ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Đá theo quan niệm của người Đông Phương được xem là "Thiên địa chi linh, chí khí kết nhi vi thạch, phụ thổ xuất, trang vi kỳ quái" nghĩa là: "Những chí tinh anh trong Trời, Đất, kết tinh lại làm thành đá. Đá đâm thủng đất mọc lên, có hình dáng kỳ quái".
Thành thử trong việc cấu tác non bệ chính là thể hiện toàn vẹncác nguyên khí đó được thu tóm trong một khung khổ nhỏ. Với quan niệm siêu hình và tín ngưỡng như vậy, cho nên người xưa hướng về việc dựng non bộ chẳng chỉ vì hình thái kết tinh của hòn đá với óc thẩm mỹ của họ, mà còn có ý nghĩa thần linh nữa. Những người chơi non bộ, chơi đá thích những loại đá vôi ở gần bờ, bị sóng gió dập vùi lâu ngày thành có lỗ, có bọng, ngấm nước đóng rêu hơn là viên đá tròn trịa. Ở Trung Quốc, có một số đá đẹp, danh tiếng, thường ghi trong sử sách hay của những người chơi cổ ngoạn như loại đá Côn Sơn, đá Linh Bích, đá Quế Xuyên, đá Thái Hồ, đá Anh, đá Dung, đá Xuyên... Nổi tiếng hàng đầu là đá Linh Bích ở Sơn Tây.
Cái thế của đá: Muốn hiểu rõ tất cả những công dụng của đá trong sự trang hoàng nhà cửa, sân vườn, thì phải nghiên cứu đến nghệ thuật "thư pháp” của Trung Hoa và Nhật Bản. Thư pháp chú trọng đến "cái thế", "cái vẻ nhịp nhàng" của nét chữ. Một khối đá cần gây được cảm giác hùng vĩ, bất tục, nhưng các đường nét của nó cũng phải có "thế", phải "nhịp nhàng" nữa, phải đường đột, tự nhiên, chứ không phải là hình tròn, hình tam giác.
Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử thường xưng tán những thứ đá quý không đục đẽo. Tuyệt nhiên không nên tô điểm thiên nhiên, và nghệ thuật hoàn toàn nhất thì không để lộ một chút gắng sức nào của nghệ sĩ, phải tự nhiên như mây bay, nước chảy, không có vết đục đẽo nào cả, như các nhà phê bình Trung Hoa thường nói. Quy tắc đó áp dụng cho tất cả các thể loại nghệ thuật. Cái đẹp của đá phải linh lung, hoạt bát, biến đổi. Cho nên hầu hết các giả sơn đều dùng những phiến đá không đục đẽo. Vườn hoa là sự thể hiện một cảnh lý tưởng, còn hòn non bộ là sự thu nhỏ lại cảnh núi rừng. Cảnh đó có thật hay chỉ trong tưởng tượng. Câu thơ tóm tắt lại ý nghĩa của hòn non bộ "Nhất lạp phiêu trung tàng thế giới" (Một hạt nhỏ tàng trữ cả thế giới).
Như thế, nghệ thuật của non bộ là loại điêu khắc thể hiện một cảnh núi rừng bằng chất liệu thật là đá, đất, nước và cây sống. Những hình tượng bằng sành hay bằng đất nung mà điêu khắc thường để kết hợp diễn tả một sự tích làm cho hòn non bộ có nội dung và sinh hoạt, sinh động thêm. Đã là một môn nghệ thuật, cho nên việc xây dựng nóiđòi hỏi nhiều công phu và nhất là tinh thần sáng tạo.
Thông thường khi dựng hòn non bộ phải trải qua 3 giai đoạn: (1) Chọn đá thích hợp cho thể tài của mình đã phác họa và xây dựng một hình thế đẹp và hợp với nội dung non bộ. (2) Phải trồng và sửa cây cho tương xứng. (3) Gắn những hình tượng bé để diễn tả một sự tích nào đó như đã hoạch định. Trước hết là vấn đề chọn đá. Điều nầy không phải đơn giản, tùy tiện, không thể lấy bất cứ loại đá nào của núi cũng làm non bộ được. Nó phải là một thứ đá vôi hút nước, có hình thể nhất định. Trong thực tế, để diễn tả cho đúng sự thật thì những đỉnh núi cao chót vót với những tảng đá nhô ra, có gân dọc trên vách đá dựng đứng, bên cạnh những hố sâu thăm thẳm, có hang, có động, tất cả đều nói lên vẻ lớn lao, nguy nga với con người. Đó là cảnh đẹp.
Thành thử muốn diễn tả hoàn chỉnh được những nét đặc thù như vậy, người chơi non bộ phải chọn hòn đá nào hợp với kích thước nhỏ bé, mà lại có đủ dáng dấp và chi tiết như thế (núi, hố, hang, động). Có thế mới có cảmtưởng như đứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Thực tế thật khó tìm kiếm được một hòn đá như ý muốn; phải ghép nhiều mảnh lại choăn khớp.
Trong thể loại điêu khắc nầy, người ta không thể và không cần thiết đục đá theo hình dáng đã định trước. Vì nếu làm như thế, chẳng những mất hết vẻ tự nhiên, mà mặt đá chắc nịch thì cỏ cây, rêu xanh cần thiết cho vẻ đẹp của hòn non bộ cũng khó mọc lên được. Thành thử, chọn được những hòn đá thích hợp chính là phần quan trọng trong việc dựng một hòn non bộ. Hàn Dũ cho rằng: "Cái thế của non bộ cũng giống như thư pháp, như kiếm thuật. Phải dứt khoát, phải sinh động. Cũng giống như Thiền định, nghệ nhân phải định tâm, có nội hàm, mới có thể chọn đượchình thể thích hợp". Hồ Thích cũng viết: "Non bộ là phần hồn, nhưng khởi động được phần hồn nầy là ý lực của nghệ nhân kết cấu ra nó. Cả hai liên hệ nhau. Không thể bỏ quên phần nào được".
Cái thế của non bộ:
Đã có được hòn đá như ý muốn và thích hợp cũng chưa đủ để tạo nên được hòn non bộ đẹp. Phải có nghệ thuật của nghệ nhân trong việc lắp ghép như thế nào cho thành một hình thế có ý nghĩa. Nghệ nhân non bộ Việt Nam có một số "thế" cổ truyền, do người xưa nghiên cứu thiên nhiên tìm ra. Cũng có thể do tinh thần sáng tạo mới. Người ta thường theo toàn bộ hay chỉ một phần của "thế" đó.
Chẳng hạn như: thế cao sơn, thế viễn sơn, thế kỳ phong, thế bích lập, thế hạc phong, thế huyền nham, thế nghênh tống. Bạch Cư Dị sưu tầm 108 thế khác nhau, làm nền tảng nghệ thuật xây dựng cảnh quan non bộ của Trung Quốc thời xưa. Muốn bố cục cho đẹp, nghệ nhân phải theo những nguyên tắc căn bản của nghệ thuật tạo hình, tức là toàn bộ phải chặt chẽ, có trọng tâm, cân đối, có gần, có xa. Phải có chủ thể và khách thể. Chủ thể làm điểm chính; khách thể để phụ hoạ. Núi cao dùng làm chủ thể, núi thấp ở xa làm khách thể, tạo nên phép viễn cận. Thiền phái Nhật lại còn đề ra những khoảng trống hư vô. Tuy là trống, nhưng nói lên rất nhiều. Phải thể hiện "vô thanh thắng hữu thanh".
Non bộ phải có nội hàm có sức sống mãnh liệt, có linh hồn "ý tại ngôn ngoại". Người sành điệu chỉ cần thoáng qua là biết được nghệ nhân đạt trình độ nào. Không phải tham lam, bạ gì cũng thêm thắt vào là đẹp, là phong phú. Trên đây là tinh thần cấu tạo. Đi sâu vào, phải nghiên cứu hình thể của non bộ sao cho hợp. Trung Hoa có 3 trường phái non bộ: trường phái tự nhiên, trường phái Lão Trang, trường phái Thiền. Cả ba đều lấy hình thể non bộ làm chuẩn.
Theo nhận định của ba trường phái đó, trước hết, nhắm vào chủ thể (hòn chủ). Hòn chủ phải có hình thế nguy nga, đứng sừng sững như một vách đá khổng lồ đối với mọi vật chung quanh. Đó là "bích lập" tức là "bức tường đứng". Tuy nhiên chỉ có được "bích lập" mà thôi, vẫn chưa đủ. Bích lập là chủ thể; còn phải có "khách thể" tức là các chi tiết phụ. Tuy là phụ, nhưng rất cần. Đá có nhiều thế. Đỉnh núi có những tảng đá nhô ra như được treo giữa chừng giống mái nhà, gọi là "huyền nham"; có nhiều đỉnh nhọn gọi là "tung nham", đỉnh đột khởi gọi là "kích nham". Chú trọng đến vách núi. Vách không được nhẵn nhụi trơn tru như bức tường. Phải có những "gân" dọc nổi lên; có thế mới diễn tả được cái hùng vĩ của thiên nhiên. Phía dưới chân núi cũng phải cân nhắc. Mặt đất không phải trơn tru, nhẵn nhụi, bằng phẳng, trông giả tạo. Phải có chỗ lồi, chỗ lõm do đá núi đổ xuống mà thành. Đó là "lạc thạch". Có lạc thạch, mới thấy được vẻ thương hải tang điền. Núi nào cũng có khe, có suối, có hang động, chẳng khác nào mạch máu của sinh vật, tạo sinh động. Thiếu đi là cảnh chết.
Trên đây là đại cương về "thế". Tuy nhiên những "thế" của non bộ được đề ra chỉ giúp cho nghệ nhân chú ý đến những điểm cơ bản trong nghệ thuật non bộ, vấn đề quan trọng nhất đối với họ vẫn là nghiên cứu thiên nhiên vô cùng phong phú, sinh động, để tạo ra những mẫu non bộ độc đáo, xuất sắc. Những đề tài cổ điển về lịch sử, về tôn giáo dùng làm nội dung xây dựng non bộ chung quy chỉ có được một số thể tài nhất định, còn những tác phẩm đầy sáng tạo của nghệ nhân mới có thể làm cho tác phẩm phong phú.
Sự hoà hợp: Cây trồng tạo cho non bộ gần với sự thật. Nhưng non bộ là núi thu nhỏ, cây trồng cho tương ứng, không là chuyện dễ. Trong quá trình cấu tác non bộ được đẹp, độc đáo, điểm chủ yếu là trồng cây, cắt xén, gắn tượng. Tất cả tạo nên nội dung của đề tài.
Việc trang điểm nầy chẳng khác là khoác y phục cho con người. Bí quyết đầu tiên về cây trồng cho non bộ là thuật làm cho cây bé nhỏ, cân xứng với kích thước của non bộ. Một cây nhỏ trong non bộ biểu hiện cho cây cổ thụ trong thực tế. Giảm chiều cao để nở chiều rộng, để cho cây không quá trẻ trung, non dại quá. Phải biết kỹ thuật trồng sửa cây cảnh, chọn cây có lá nhỏ bé, dáng đẹp, thân uốn, sao cho thích hợp với toàn cảnh.
Cây trong non bộ: Những cây thường dùng là: La hán tùng, bách xỉ tùng, trắc bá diệp, cây si, cây sung, bạch đầu ông, hổ nhĩ, thạch xương bồ, trân châu thảo, trường sinh, phượng vĩ, sa kê, dương liễu, ngự sử mai, trúc nhĩ, thủy tùng trúc, thiên vân, xương rồng, bông nổ, kê ốc, hồng tỷ muội, rong cẩm vân, xương cá, cây sến. Những cây nầy chẳng những có hình dáng đẹp mà có thể sống dễ dàng trên khe đá. Hơn thế nữa, những loại cây trồng trên non bộ thay đổi tùy theo phong thổ của từng vùng. Sự chọn lựa cây trồng non bộ cũng tùy thuộc vào sở thích của nghệ sĩ và nội dung của non bộ được đề ra, dựa theo hình dáng của đá.
Trong việc xây dựng non bộ, việc chọn cây trồng và cắt tỉa cây trồng còn chứng minh về trình độ nghệ thuật. Có những hòn non bộ do trồng một cây không thích hợp, cho nên loại bỏ đi. Chẳng hạn trong hòn non bộ chiều cao độ năm sáu phân tây mà lại trồng những cây to lá, thân khoẻ, như cây đề, cây đa, thì chẳng những lá to đã không phù hợp với hình thế của non bộ, mà trong một thời gian không lâu, cây phát triển lên cao, rễ cây sẽ bao trùm cả hòn non bộ.
Tượng: Gắn những tượng nhỏ bằng sành sứ cũng không thể thiếu trong một non bộ hoàn chỉnh.
Về phương diện nghệ thuật thì màu tươi sáng của những tượng nầy trên nền xanh thẫm của lá cây và rêu đá sẽ làm cho sắc thái non bộ thêm phong phú. Những pho tượng sành bé nhỏ trên bức tượng cũng như nhân vật trong một bức tranh phong cảnh, giúp cho tác phẩm thêm phần sinh động hơn. Trước đây những nghệ nhân chơi non bộ cũng như những người nghệ nhân tranh dân gian thường lấy những sự tích trong lịch sử hay huyền thoại Trung Quốc.
Nội dung những non bộ thường được chia ra làm hai loại: loại thứ nhất lấy sự tích phổ biến của lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc (Tam Quốc Chí, Đông Chu Liệt Quốc) hay những danh lam thắng cảnh Trung Quốc (Động Đình Hồ, núi Nga Mi, núi Phổ Đà...); loại thứ haicó tư tưởng Lão Giáo hay Phật Giáo lấy tên núi thần thoại đặt tên non bộ như Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Trong những núi thần thoại nầy có những hang động lấy tên theo truyện Tiên, truyện Phật như Tăng Tiên Động, Quan Âm miếu, Lôi Tổ...
Bồn nước: đây cũng là phần không thể thiếu của non bộ. Người Trung Quốc gọi là bồn cảnh. Non bộ phải là cảnh sơn thủy hữu tình được thu nhỏ lại, phải có đủ non, đủ nước. Nước tạo thêm tính sinh động của non bộ. Quả núi ở non bộ theo quan niện của người xưa, tượng trưng cho thế giới; bồn nước tượng trung cho bể cả vô tận; thành thử để tượng trưng cho cái vô tận của bể khơi, bồn nước thường có hình tròn. Một non bộ thiếu săn sóc một thời gian không lâu thì sẽ khô héo nếu gặp mùa hạn hán; còn săn sóc không đúng cách thì cây cối mọc lên um tùm, cảnh trí cũng sẽ biến dạng. Có những loại cây như cây si có thể bắt rễ đến chỗ đất tốt, phát triển khoẻ, sẽ làm hỏng cái hay đẹp của non bộ. Như thế, non bộ cũng như vườn hoa giúp cho chúng ta yêu thích cảnh vật, thiên nhiên, tạo niềm vui, tâm hồn bình thãn, giáo dục về thẩm mỹ. Cả một tập hợp những giá trị tinh thần trong thú chơi non bộ.Trần Hưng
Cấu trúc cây cảnh
Một cây cảnh đẹp cần có sự cân bằng toàn diện, từ sự tạo hình, uốn nắn kiểu dáng đến sự kết hợp giữa cây và chậu. Có ba nhân tố chính cần lưu tâm:
- Rễ cây ăn lan: Rễ cây lộ ra trên mặt đất làm tăng thêm ấn tượng về sự già dặn và tính chất của cây. Đây là một trong những nét đặc trưng thú vị nhất của nghệ thuật cây cảnh (khác với cây bonsai) Rễ cây cần lan ra nhiều hướng quanh thân và bò rộng ra, tạo cho thân cây chỗ tựa chắc chắn.
- Thân cây: Nét đặc trưng quan trọng nhất của thân cây là có ngọn đẹp , nhưng cây mọc thẳng tắp sẽ làm hỏng sự hài hòa trong kiểu dáng. Phải tìm loại vỏ cây có cấu tạo và màu sắc phù hợp với đường nét, kèm theo tuổi tác, vẻ dày dạn phong sương cũng là điều hấp dẫn của cây cảnh.
- Cành cây: Cành cây tạo nên cấu trúc căn bản của hình bóng cây. Phải điều chỉnh nó bằng phương pháp cắt tỉa và buộc uốn . Hãy ngắm kỹ sự sắp đặt của cành mọc lên và lan ra quanh cây như một cầu thang xoắn ốc, hình dung sự hài hòa cân đối quanh thân cây.
Với kỹ thuật uốn dây kẽm có thể tạo cây cảnh bằng cách thay đổi hướng của thân và nhánh cây. Những cành mọc chĩa lên có thể uốn ngang hay vuốt xuống để tạo ấn tượng già dặn, trưởng thành. Uốn kẽm loại cây xanh quanh năm ở thời điểm nào cũng được (nhưng với các loại như tùng bách thì thời điểm tốt nhất là cuối mùa thu đến đầu mùa xuân). Nên uốn cây rụng lá theo mùa vào cuối xuân (trước khi cây đâm chồi) hay cuối thu (trước khi ngủ đông). Thực tế, người chơi cây cảnh nên dựa vào dạng cây để chọn những cành mềm, dẻo, dễ uốn và không bị tách nhánh.
Trồng cây cảnh bao giờ cũng phải coi trọng gốc cây . Gốc phải to hơn thân, thể hiện cây đã sống lâu năm . Gốc to thì phải có rễ nổi sum suê, càng nhiều rễ càng đẹp . Mỗi một chậu là một gốc cây hoặc một quần thể cây tụ họp vào nhau. Chiều cao và chiều rộng của cây phải tương xứng . Thân cây có dáng mềm mại, nghiêng hay đứng thẳng tuỳ theo các thế cây. Cành cây phải phân bổ hợp lý cấu tạo so le qua nhiều hướng, không gò bó . Từ gốc đến chỗ có cành phải có khoảng cách bằng 1/3 chiều cao của cây để nhìn thấy thân cây khoẻ đẹp . Không nên để cành che lấp thân . Một cây nhiều nhất chỉ nên có 4 cành. Cành dưới thấp gọi là cành hồi âm , để làm cho gốc cây có hậu , vững chải , bền chặt . Cành thứ hai , thứ ba là cành tả hữu , hai cành chính của cây. Cành thứ tư là cành tế thân , hay cành hầu để cho phần trên đỡ trơ trọi và làm cho bố cục tổng thể được chặt chẻ . Các cành phải được cắt xén gọn gàng , không để lá mọc um tùm .
Dáng đứng
Cây cảnh phải được nghệ nhân uốn nắn , chỉnh sữa thành một thế cây hay dáng đứng để cây có một bố cục hài hòa , đẹp đẽ . Như thế cây cảnh mới có được một sức sống , một ý nghĩa mà nghệ nhân muốn sáng tạo . Phần nầy rất quan trọng , vì nếu cây không có thế đứng thì nó không phải là cây cảnh . Nghệ nhân phải chấp nhận từ 10 – 20 năm để hoàn chỉnh một cây thế với những nguyên tắc tạo hình tỷ mỷ và nghiêm ngặt. Mỗi người có cái nhìn thẩm mỹ khác nhau và vì thế cây cảnh cũng có những kiểu dáng khác nhau. Người già, thích kiểu dáng chịu ảnh hưởng của nho giáo, thể hiện những thế cây phúc-lộc-thọ, ngũ phúc, phu tử, mẫu tử, huynh đệ, bằng hữu… Người trẻ tuổi thích phóng khoáng, lãng mạn thì tạo thế cây hoành, thế cây nằm ngang hoặc trễ đổ xuống như dòng thác. Có rất nhiều thế cây : thế phượng vũ, thế long giáng, thế phượng vũ long đàn, thế bạt phong hồi đầu, thế trực liên chi, thế long ẩn, thế lão mai thế tam đa, thế tứ quý, thế nguyệt ảnh, thế địa đạo huyên nhi, thế phượng rồng sóng đôi, thế đón gió, thế chờ đợi, thế ngẫu tự, thế nhà hiền triết , thế thất hiền, thế vũ trụ, thế nhất trụ kình thiên, thế tam đa ,thế trung bình cong, thế trung bình ngay, thế trực quân tử liên chi ,thế trực liên chi , thế trực quân tử v.v...Sau đây là một vài thế cây phổ biến ở Việt Nam :
- Thế Tam Đa : Còn gọi tam tài, tam giáo hay là thiên, địa, nhân . Thế này là cây cổ thụ, gốc thân to, nhưng chỉ uốn có ba tán tròn chung quanh thân cây, tàn thứ nhất là một mâm tròn, hớt tỉa lúp búp, nhưng nhỏ hơn, mỏng hơn. Tàn thứ ba là tàn ngọn, cách xa hơn tàn thứ hai cũng hớt tỉa tròn nhưng nhỏ hơn hai tàn trước. Tàn ngọn này cũng tỉa lúp búp chứ không vươn cao, nên xem cây kiểng này có dáng lùn mập, nhưng vì là cây cổ thụ nên cũng rất cân đối, rất đẹp. Thế tam đa tuợng trưng cho ba ông Phước, Lộc,Thọ; ba tàn đều tròn đều đẹp, tượng trưng cho sự vĩnh cửu, sung túc, hạnh phúc, giàu sang và sống lâu. Thế này dùng để chúc thọ rất có ý nghĩa đối với người già cả.
- Thế Ngũ Phúc : Cây ngũ phúc năm từng, có thể uốn như cây tam đa rồi nuôi thêm hai tàn nữa y như vậy là đạt. Nhưng cũng có thể đối thành 5 tầng theo lối chiết chi tứ diện cũng được. Những tàn đều phải uốn tỉa ngang bằng lúp búp chớ không được vươn lên cao. Thế ngũ phúc to cao đẹp hơn thế Phước, Lộc, Thọ, ý muốn chúc tụng nhiều hơn nữa là Phước, Lộc, Thọ, An, Khang.
- Thế Phượng Vũ : Theo cách chim phượng múa. Cây có bốn cành, một ngọn là 5 tán. Cành hồi âm quặt phía sau tượng trưng cho đuôi chim. Hai cành tả hữu thành hình hai tán xòe như hai cánh chim đang xòe múa. Cành ức nhỏ hơn các cành khác, ngọn cây để dài ra vươn lên, tượng trưng cho đầu chim. Dáng cây có làn đi ngang, hơi chúc xuống làm biểu tượng con chim phượng hoàng đang múa đón con người, vui với những thành quả tốt đẹp.
- Thế Huynh Đệ : Cây một gốc, hai thân (có thể trồng ghép hai cây lại nhưng phải tạo thành một gốc). Hai thân có độ cao thấp, to nhỏ suýt soát nhau, kề sát nhau đẹp đẽ. Mỗi thân đều có 5 tán, các tán đan xen nhau. Ngọn cây nhỏ phải ngã hướng sang cây lớn như anh em, biểu lộ tình âu yếm ruột thịt.
- Thế Ngũ Nhạc : Trồng bằng năm cây cảnh trong một cái chậu hay cái khay to làm cảnh núi rừng, mỗi cây có một dáng riêng biệt có thể đứng hết, hoặc cây đứng cây xiêu, cây nằm, nhưng phải có lớn có nhỏ như sơn thủy mới đẹp. Cũng có thể xếp hình chữ ngũ. Xếp “ngũ lão giản đình” năm ông già đàm đạo phải xếp vòng tròn . Thân cành nhánh phải hài hòa, làm sao có tính cách giao chi, hỗ tương với nhau, nếu thiếu một cây thì thấy không đẹp. Thế ngũ nhạc cũng uốn bằng năm cây cùng một loại như mai chiếu thủy, tùng, cần thăng, kim quýt, đều đẹp.
-Thế Quần Thụ Tam Sơn : Ba cây cảnh nằm chung trong một chậu to. Còn gọi là tam tài, ba cây cảnh trực thọ đứng gần ngay hàng, cây cao chính giữa, hai cây thấp hơn ở hai bên, nhưng có thể so le một tý, cây to có 5 tàn, hai cây lùn chỉ cần ba tàn, có thể giao cành với nhau làm thế nào ba cây cân đối mới đẹp và ba cây cũng liên kết với nhau, nếu thiếu một trong ba cây là mất hết vẻ đẹp. Cho nên thế tam sơn biểu tượng cho sự đòan kết . Thế tam sơn nên uốn với cây tùng, cây bách, xếp thành hình chữ sơn là núi rất đẹp.
-Thế Lưỡng Long Tranh Châu : Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng kim quýt, ngày nay thường uốn với cùm nụm nhanh chóng hơn với nòng bằng kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành, thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất đẹp. Nếu uốn với hai cây mai chiêú thủy thì rất quý.
- Thế Long Đàn Phượng Vũ : Có nghĩa là chim phượng hoàng múa trên mình rồng. Đây là thế có thể uốn với một cây, hoặc hai cây trồng chung một chậu. Phải cây cổ thụ gốc to, uốn nằm trên miệng chậu, gốc ngẩng lên làm đầu rồng. Thân uốn cong hạ thấp, các chi xòe ra bốn phía làm chân và mây, ngọn ngã về phía sau làm đuôi rồng, cây thứ hai có hai rễ chẻ ra làm chân phượng, thân ngã ngang qua ôm lấy mình rồng, các cành hậu thân uốn làm đầu và đuôi chim phượng, hai cành tả hữu xòe ra làm hai cánh chim uốn với dáng đang múa, ngọn làm mây. Thế này uốn cho thật dịu dàng mềm mại như phượng đang múa, tàn nhánh xòe ra, trên mình rồng uốn khúc nhịp nhàng. Thế chim phượng múa trên lưng rồng là tuyệt đẹp, biểu tượng cho quyền uy của vua chúa , ngày xưa chỉ có ở trong cung đình.
-Thế Long Bàn Hổ Phục : Uốn với một cây cảnh to có hai thân hoặc với hai cây trồng chung một chậu.Thế long bàn hổ phục có nghiã là rồng nằm uốn khúc và hổ cũng nằm sát đất chịu khuất phục để chầu chủ nhân.Thế này rất khó uốn, phải có bộ rễ thành hình chân thú nằm xòe ra phía trước, tả thanh long, hữu bách hổ, hai chân hổ chồm ra, hai chân rồng ngấu xuống: cây thanh long, gốc nằm trên mặt chậu, đầu ngẩng lên , thân uốn cong làm mình rồng, cành tả hữu uốn theo lối chiết chi làm mây, hai cành trước sau làm chân xòe móng ra, ngọn hồi đầu làm đuôi, uốn dáng mềm dẻo, uyển chuyển. Cây bên phải, gốc thân bò trường lên chậu, đầu cúi mọp xuống, các chi tỉa nhỏ ôm lấy thân để trang trí, ngọn vươn lên làm đuôi, tỉa theo tàn chổi nhỏ, Thế long bàn hổ phục có hình dáng nằm chầu khuất phục hiền hòa, nhưng không kém phần uy nghi, biểu tượng cho quyền lực.
-Thế Long Mã Hồi Đầu : Thế này gồm hai cây to riêng biệt hay cùng gốc, nhưng một cây cao một cây thấp, rễ xòe ra theo chân thú, cây thấp thân to, ngắn nằm ngang, ngọn làm đầu ngẩng lên, không tàn nhánh, tạo dáng con ngựa nằm quay đầu trở lên. Cây cao uốn thân long, cong cong vặn vẹo, phân chi theo lối tứ diện, xòe ra bốn phía làm chân và mây, ngọn uốn tàn to như bông sen rồi bẻ cúp xuống làm đầu rồng quay trở lại. Thế này rất khó uốn, mới đầu phải lựa những cây mềm dẻo như mai, có nhiều rễ để uốn chân thú nằm xòe ra như chân ngựa, uốn làm sao cho khỏi phải giải thích người khác xem mà biết mới hay, cho hài hòa mới đẹp.
-Thế Tiều Phu Quải Tử : Thế này hơi khác một chút là cây tiều phu phải là cây cổ thụ, gốc rễ lồi lõm, thân cây gân guốc, cây tiều phu phải đổ ngã nhiều hơn, gần như bạt phong hồi đầu, cõng cây tử trên lưng; cây tử cùng một gốc, nhưng mọc cao hơn, nhằm trên lưng như nhánh vậy, nhưng gốc to hơn, cây tử có vẻ phong trần hơn, tuy nhỏ nhưng có vẻ già nua, cũng hai tàn một ngọn dạng xuy phong như cây tử của cặp mẫu tử. Cây tiều phu cũng bốn tàn một ngọn, nhưng gồ ghề, gân guốc u nần, gần nằm mọp nhưng vẫn quy căn hồi đầu, để giữ thăng bằng. Cây tiều phu quái tử cũng quấn quýt nhau như tình cảm cuả cha con vậy. Còn nhân ra thế “Lão mai sinh quí tử” rất hay, cha già có con muộn rất được ưa chuộng…
-Thế Mẫu Tử : Thế mẫu tử (mẹ con) phải có hai cây cùng một gốc, cây lớn là mẫu, cây nhỏ là tử; cây mẫu cao gấp 3 lần cây tử mới đúng là mẹ con. Cây này phải cổ thụ, bộ rễ xoè ra nổi lên trên mặt chậu, gốc dạng xuy phong phải cỡ 45 độ, cây tử cũng vậy, cây mẫu và cây tử phải xiên cỡ 90 độ mới đẹp, đủ chỗ để phân chi tán cành nhánh ôm lấy cây tử, như mẹ chăm sóc con với dáng vóc trìu mến thương yêu tình cảm thật sự của mẹ đối với con! Tán thứ nhất cuả cây mẫu bẻ ra bên ngoài chừa chỗ cho cây tử mọc lên. Hai cây mẹ con đều uốn theo chiết chi nhị diện, cây tử vươn lên thẳng đứng, hai tàn một ngọn nhỏ. Cây mẫu đến đoạn thứ ba cũng uốn quy căn thẳng đứng, để giữ trọng tâm nằm trong chậu, gọn gàng, cân đối, có bốn tàn một ngọn hồi đầu. Tàn cuả cây mẫu tử lớn hơn tàn cây tử, đều uốn theo tàn hồng nhật tròn đẹp, hoặc tàn hoa rơi xoè ra ôm lấy cây tử, mềm mại duyên dáng, cây tử thì quấn quýt không dời cây mẫu, tả được tình cảm giữa mẹ con, thế này thường là “Tam cang ngũ thường hay tam tùng tứ đức” rất được ưa thích trong bộ ba kiểng cổ ngày xưa. Thường bộ kiểng cổ 3 cây, có hai cây mẫu tử đối xứng hai bên rất đẹp. Nếu cây tử không phải cùng chung một gốc với cây mẫu, mới tháp vào thì gọi là “Minh linh dưỡng tử” xem như là con nuôi vậy .
- Thế Phụ Tử : Thế này cũng y như thế mẫu tử, nhưng cây phụ (cây cha) phải to cao và đứng thẳng hơn cây mẫu, tạo vóc dáng cuả người cha, ít dịu dàng hơn, cứng rắn hơn, nhưng không phải là không che chở cho con, thể hiện đúng tình cảm cha con, cây tử nhỏ hơn cây phụ nhiều, cũng ba tàn, quấn quýt lấy cây phụ, lúc nào cũng nhờ sự bao bọc cuả người cha. Cây phụ cũng 5 tàn quy căn hồi đầu như cây mẫu. Cây phụ tử có thể mập mạp to hơn cây mẫu tử, thường uốn thế tam cang ngũ thường, biểu hiện tính trung hiếu xử lý ở đời cuả người quân tử.
-Thế Phụ Tử Giao chi : Thế này y như thế phụ tử, nhưng phần nhánh cuả hai cha con có thêm phần quấn quýt, ôm lấy nhau, mặc dù cha con, nhưng yêu thương trìu mến y như tình yêu thương dịu dàng cuả mẹ con. Thế này cây tử có thể to cao hơn và có một nhánh quyện lấy cây phụ nên gọi phụ tử giao chi. Các thế khác như huynh đệ, tỷ muội, đồng khoa, đều có dáng tương tự như cây mẫu tử, nhưng chỉ khác nhau về kích thước, to nhỏ, và cách uốn mô tả tính tình quan hệ với nhau mà thôi, nhưng hai cây gần bằng nhau, coi như bạn bè, gọi là đồng khoa, nếu cây cao cây thấp chút đỉnh, coi như anh em được gọi là huynh đệ, còn hai cây có dáng mềm dịu, duyên dáng hơn được gọi là tỷ muội, chị em. Những cây này đều rất dễ uốn tùy theo dáng mà đặt tên, nhu phụ tử tương tùy, phụ tử tương thân, mẫu tầm tử, mẫu tử tương thân v.v..
Loại cây
Để tạo một chậu cảnh , trước tiên phải tìm một cây ở ngoài thiên nhiên hoang dã như :sung, si, thông, trắc cũng có thể cấy ghép ở vườn, trồng vào chậu như khế, me, tùng, mai...Thông thường, các cụ xưa dùng các loại cây chia thành 3 loại chính :
- Tứ linh gồm 4 loại cây: đa, sung, sanh, si ứng với tứ hình trong động vật: long, lân, quy, phụng ;.
- Tứ quý gồm: tùng, trúc, cúc, mai ứng với tứ bình, hợp với tứ thời ( xuân tùng, hạ trúc, thu cúc, đông mai ) thể hiện ước vọng hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
- Tam đa gồm 3 loại cây: sung, lộc vừng, vạn thọ, ứng với Phúc- Lộc- Thọ.
Ngày nay , nghệ nhân dùng nhiều loại cây khác nhau : trầm hương , bồ đề , bách tán , kim quất , bạch đàn , thông , táo dại , tùng , đào , thanh liễu , kim ngân , huyết dụ . trắc bá diệp , lựu , lê, giẻ gai, sứ v.v...Một số cây thông trồng làm cảnh gọi là “weeping pine”, thân nhỏ và nghiêng qua một bên như sắp đổ cũng hay được dùng để làm cây trồng trong chậu cảnh. Trà hoa nữ là một loại cây hoa cũng rất phổ thông để trồng trong chậu. Các loại xương rồng cũng là những thứ rất được ưa chuộng để tạo ấn tượng đặc biệt.
Chậu
Chơi cây cảnh cần chú ý đến sự cân đối giữa cây và chậu , tất cả những đặc điểm tạo dáng và vị trí của cây trong chậu.
Tùy theo từng loại cây cảnh mà trồng vào các chậu cảnh thích hợp, tương xứng và đẹp. Chậu cảnh đẹp sẽ làm tăng thêm giá trị thẩm mỹ.
Mỗi một loại cây cảnh đòi hỏi nhu cầu về đất, phân bón và một diện tích lớn nhỏ khác nhau để sống và tăng trưởng. Có những loại cây cảnh trồng trong chậu lớn có thể cao đến trên dưới 3m. Nhưng với những loại hoa ẻo lả như hoa tương tư (pansy) thì lại lè tè như ngọn cỏ. Phải chú ý đến sự hài hòa giữa những loại chậu với hình dáng và màu sắc giữa những loại cây cảnh. Diện tích chỗ để chậu cảnh không nhất thiết phải lớn rộng, tuỳ sự sắp xếp khéo léo để tạo ấn tượng thẩm mỹ.
Sang chậu là một công việc bắt buộc đối với người chơi cây cảnh. Lâu không sang chậu, cây hỏng. Sang chậu sai kỹ thuật cây ốm , không ra cành và chết. Vì vậy người chơi cây cảnh phải biết rành kỹ thuật sang chậu.
Sang chậu nhằm nhiều mục đích khác nhau:
- Cây cảnh trồng trong chậu lâu năm, đất cứng, hết màu, rễ cây ăn ra bám vào một lớp dầy xung quanh thành chậu. Mùa hè nắng chiếu vào thành chậu đốt nóng rễ phía trong, cây hết đất nên lụi tàn rồi chết dần. Phải sang chậu để thay đất cho cây.
- Sửa bộ rễ, cắt bỏ rễ thối, rễ thừa, uốn nắn cho bộ rễ đẹp, nâng bộ rễ nổi lên.
- Thay đổi chậu cho phù hợp với cây, làm tăng giá trị nghệ thuật của cây.
- Thay đổi dáng thế cây cho ngoạn mục hơn dáng thế cũ.
- Xem hệ thống thoát nước ở những chậu bị tắt nước.
Chăm sóc
Các loại cây cảnh như thiên tuế, cau, trúc đùi gà, trúc Nhật, thiết mộc lan, tùng, trắc bách diệp... rất cần được bón phân thường xuyên để duy trì thế cây và tán cây được cân đối. Khi đất trong chậu đã cạn kiệt chất bổ dưỡng thì cây cảnh không còn tươi tắn, xuống sức, bộ lá kém tươi và bắt đầu nhuốm vàng bệnh hoạn, các cành như không thể cất cao lên được, nhiều rễ con lồi lên mặt đất chậu, lớp đất trên bề mặt chậu mỏng dần đi. Những triệu chứng trên cho thấy đã đến lúc thay đất cho cây.
Sau khi trồng cây cảnh ổn định trong chậu, trong quá trình phát triển của cây cần phải tưới nước và bón phân thường xuyên. Tưới nước là khâu quan trọng trong việc trồng cây cảnh nhằm cung cấp nước cho cây bị thiếu hụt do phạm vi trồng hay phát triễn của cây hạn hẹp. Việc tưới nước tuỳ thuộc vào loại giống cây cảnh, yêu cầu trong giai đoạn sinh trưởng trong năm và điều chỉnh đặt để của cây cảnh như thế nào mà xác định cho thích hợp.
Bố trí chậu cảnh
Nhà ở của người Việt thường gắn liền và hòa hợp với thiên nhiên. Hình thành các cảnh quan thiên nhiên thu nhỏ còn có ý nghĩa về thiền . Cây cảnh trong nội thất phải là những loại cây tốt, có nhiều mầm lộc phù hợp với môi trường sống ít ánh sáng trực tiếp và chịu bóng râm. Nhưng việc bài trí cây cảnh trong nhà là cả một nghệ thuật . Tất nhiên trong điều kiện nội thất thì khó có loại cây nào bền lâu mà phải thường xuyên luân chuyển, đưa cây ra ngoài khí trời hoặc thay đổi thường xuyên thì cây mới xanh tươi.
Ở các phòng riêng như phòng ngủ , phòng làm việc chỉ nên chưng bày các chậu cây cảnh nhỏ , một chậu xương rồng hoặc một chậu bonsai thì rất tốt .
Ở tiền sảnh hoặc phòng khách nên để các chậu cảnh bề thế , nghiêm túc : chậu mai , kim quất , hay một chậu cây phát tài...
Ở lối đi trong vườn nên đặt những chậu cây nhỏ, ít gai nhọn hay cành chĩa, thân lá gọn và không vướng víu như trúc Nhật hoặc hoa, cây bụi thấp, mềm mại, không che khuất tầm nhìn và cản trở di chuyển .
Ở ngoài vườn hoặc ngoài sân có thảm cỏ xanh mượt thì cần thêm cây cao dáng thẳng; chậu cây chủ yếu là lá tròn nhỏ xanh với những hoa lớn đỏ. Cây xanh vươn lên thuộc dương, phần bóng râm thuộc âm, do đó dù đất có rộng vẫn nên dành ra khoảng trống để ánh sáng chiếu vào, làm hồ nước, tạo cao thấp và thay đổi độ cao cây, tạo âm dương thay đổi .
Thiền trong cây cảnh
Cây cảnh là nghệ thuật mô phỏng thiên nhiên hay "thiên nhiên được nghệ thuật sắp xếp lại". Cái vi mô trong cây cảnh gợi lên cái vĩ mô của vũ trụ. Cây cảnh là một tác phẩm sống, hay là một tác phẩm điêu khắc sống. Cái đẹp ở cây cảnh là đơn giản, vừa đủ, ẩn tàng một trạng thái tinh thần dồi dào mãnh liệt, làm cho con người thấy được sự hiện hữu của chính mình trong đời sống mầu nhiệm. Nghệ nhân tạo cây cảnh cũng đồng thời tạo dựng cuộc đời, tâm hồn, trí tuệ, ước muốn của mình. Vì vậy, cây cảnh là mảnh tâm hồn của con người, giúp cho con người hướng về cái đẹp, cái thiện, sống đẹp đẽ và tốt lành hơn. Thưởng ngoạn một chậu cây cảnh người xem sẽ thấy tập trung trọn vẹn hay một phần vũ trụ. Trong cái nhìn tổng thể, sẽ thấy được cái hùng vĩ của một cây đại thụ trong thiên nhiên. Đó là những tác phẩm nghệ thuật đặc biệt, có nhựa sống của thiên nhiên và làm cho người thưởng ngoạn cảm nhận được mối giao hoà giữa thiên nhiên và con người, thể hiện phong cách thiền là con người có thể hoàn thiện thiên nhiên chứ không thể sáng tạo thiên nhiên.
Lê Tấn Tài
1. Tỷ lệ vàng:
Chiều cao của cây bằng 6 lần bề dày của thân (1/2 của TLV).
Thân (khoảng cách từ gốc đến cành thấp nhất) = 1/3 chiều cao của cây. Cành nhánh (từ cành thấp nhất đến ngọn) = 2/3 chiều cao của cây. Khoảng cách giữa các cành nhánh nhỏ dần từ dưới lên theo tỷ lệ 1/3. Chiều dài của cành nhánh cũng ngắn dần từ dưới lên trên theo tỷ lệ này.
Tỷ lệ vàng của cây GIỮA CÂY và CHẬU
Bề dày của chậu bằng xấp xỉ 2/3 chiều cao của cây
Từ hai quy ước: Chiều cao của cây bằng 6 lần bề dày của thân (2 lần của TLV) và độ sâu của chậu bằng đường kính của thân, ta thấy độ sâu của chậu cũng tương ứng với 1/2 TLV.
Với một cây cao 60 cm (đường kính của thân <10 cm), ta sẽ sử dụng chậu có độ sâu < 10 cm, chiều dài 40 cm, tất nhiên theo TLV ta cũng dễ suy ra cạnh còn lại là < 27cm trong trường hợp đặc biệt, cạnh ngắn của chậu có thể là < 14cm), trường hợp chúng ta áp dụng 1/2 TLV.
Tỷ lệ vàng CỦA CÂY TRONG CHẬU
Nếu chia chậu làm 3 phần theo quy tắc phần ba thì vị trí của gốc trong chậu luôn nằm trên vị trí của những điểm mạnh (những giao điểm của các đường phân chia). Hoặc là ở phần ba lùi về sau và một phần ba phía bên phải hay bên trái. Nói chung không ra ngoài quy ước của TLV.
Trên đây chỉ nêu một vài nét sơ lược. Xét cho cùng, TLV là một chuẩn mực để theo đó thể hiện những tác phẩm nghệ thuật đạt được những yêu cầu thẩm mỹ (mà trong đó nổi bật nhất là sự hài hòa về bố cục). Nhưng cũng như vô số các chuẩn mực khác ở trên đời này đối với người nghệ sĩ, TLV cũng chỉ là một chuẩn mực để vượt qua chứ không phải là những chuẩn mực để tuân thủ một cách thụ động.
Một điều nghịch lý nữa là những tác phẩm tuyệt kỹ thường là những tác phẩm gần như chối bỏ chuẩn mực. (Những bài thơ Đường tuyệt tác đa phần là những bài thơ không gò bó trong niêm luật, nhiều tác phẩm hội họa của các danh họa cũng chối bỏ những nguyên tắc cơ bản nhất về điều sắc, phối cảnh...).
Tuy nhiên, cũng cần nói lại, đằng sau những tuyệt tác đó là cả một ngẫu hứng tài tình khởi đầu từ những miệt mài khổ luyện. Nói một cách nào đó thì việc khám phá TLV là một thành quả rất đáng trân trọng mà những con người tài hoa khát khao chiếm hữu cái Đẹp đã cống hiến cho nghệ thuật. Vấn đề còn lại thuộc về cảm quan nhạy bén và tinh tế của người sáng tạo.
2. Dáng cây cơ bản
Trên thế giới, người ta chia bonsai thành bốn nhóm:
Cây dưới 15 cm là loại bonsai rất nhỏ
Cây cao từ 16 đến 30 cm là loại bonsai nhỏ
Cây cao từ 31 đến 60 cm là loại bonsai trung bình
Cây cao trên 60 cm là loại bonsai lớn
Loại dưới 15 cm là "mini bonsai", thường được trồng trong chậu nhỏ và trưng bày trong nhà. Còn loại trên 60 cm là cậy trồng trong chậu đặt ở sân vườn hoặc trước hàng hiên nhà.
Ban đầu, chỉ có 5 thế bonsai cơ bản là: thẳng đứng (Chokkan), thẳng đứng phóng khoáng (Moyogi), nghiêng (Shakan), thác đổ (Kengai) và nửa thác đổ (Han Kengai ). Về sau, người ta phát triển thành nhiều thế khác như: rễ phủ trên đá (Sekijoju), rễ trong đá (Ishizuke), chổi (Hokidachi ), bạt phong (windswept), song thụ và tam thụ (Ikadabuki), thế lùm (clump style), văn nhân (bunjin-gi), thế cành rủ (weeping style), thế gỗ mục (dead wood) và nhóm cây hay rừng (Yose Uye)...
Để có những cây bonsai giá trị, người ta thường dựa vào các yếu tố sau:
Cây phải trổ nhiều hoa và hoa phải có màu sắc đẹp
Lá xanh mướt, bóng; lá càng nhỏ càng tốt
Thân cây phát triển kiểu "đầu voi đuôi chuột" (phần góc lớn hơn phần ngọn). Một cây có thân suôn đuột, đường kính gốc và phần ngọn không chênh lệch nhau nhiều thì không thể làm thành cây bonsai
Cành, nhánh phải phân chi rõ ràng, phù hợp với một loại dáng thế nào đó đã định trước. Cành, nhánh phải mọc được những chồi non tốt
Vỏ cây phải thu hút được cái nhìn của người thưởng ngoạn (càng sần sùi, lộ vẻ già nua càng tốt)
Bộ rễ dày, to, gân guốc nằm lộ khoảng 1/3 trên mặt chậu
Những yếu tố nêu trên kết hợp hài hòa với nhau sẽ tạo ra một cây bonsai lý tưởng (nếu có dáng thế phù hợp).
Phương pháp ghép cây
Ghép cây là tách rời một mắt ghép, một chồi non vừa lú ra ở nách lá hoặc một đoạn thân non của cây có những đặc tính nổi bật đặt vào một cây khác có đặc tính sống khoẻ và phát triển tốt, còn gọi là gốc ghép tiếp tục sống và tăng trưởng nhờ vào gốc ghép.
Nếu gốc ghép và mắt ghép thuọc cùng một cá thể thì đây là một sự tự ghép (autogreffon); nếu chúng đến từ các cá thể khác nhau của cùng một loài, người ta gọi đây là sự đồng ghép (himogreffon), sự kết hợp giữa các loài hoặc các giống khác nhau là một sự dị ghép (hétérogreffon).
Các kỹ thuật ghép cực kỳ đa dạng. Tuy nhiên, người ta có thể phân biệt làm 3 loại chính.
1. Ghép cành
2. Ghép mắt
3. Ghép mô được nuôi cấy in-vitro
Ở đây, xin giới thiệu 2 phương pháp đơn giản không đòi hỏi kỹ thuật cao mà bạn có thể áp dụng ngay tại nhà.
1. Ghép cành:
a. Ghép áp nhánh:
Chọn hai cây có đặc tính khác nhau: một cây có khả năng sống khoẻ mạnh được chọn làm gốc ghép; cây còn lại có những đặc tính tốt khác như cho hoa đẹp, sai trái... được chọn làm mắt ghép. Chọn hai nhánh có kích thước gần bằng nhau, cạo vỏ hai mép cây kề nhau, ( dài 1,5-2cm, rộng 0,4-0,5cm) rồi áp chúng lại. Dùng dây nylon mỏng buộc chặt nơi tiếp xúc. Khi vế ghép liên sẹo (từ 20 đến 35 ngày), cắt bỏ phần ngọn của cây dùng làm gốc ghép, cắt gốc cành ghép cách chỗ buộc 2 cm. Đối với những cây khó ghép, có thể cắt gốc cành ghép làm 2 lần: lần đầu cắt 1/2 đường kính, 5-10 ngày sau khi cắt đứt hoàn toàn. Bây giờ, phần gốc ghép đã bị cắt bỏ ngọn sẽ nuôi phần mắt ghép phát triển và tạo một cây ghép mới vừa sống khoẻ mạnh vừa có mang những đặc tính mà ta mong muốn.
Ưu điềm: Thao tác nhanh, dễ ghép. Tỷ lệ sống cao khi chọn đúng tổ hợp ghép, nhanh bật mầm ở cành ghép, sức sống của cành ghép tốt. Thường sử dụng trong lĩnh vực cây ăn trái
Nhược điểm: vị trí ghép thường nổi lên các vết sần không đẹp lắm nên ít được sử dụng trong lĩnh vực trồng bonsai.
b. Ghép đoạn cành:
Làm vệ sinh vườn gốc ghép trước một tuần: Cắt cành phụ, gai ở đoạn cách mặt đất 35-45cm, làm sạch cỏ vườn, bón phân, tưới nước lần cuối để cây chuyển động nhựa tốt.
Chọn những đoạn cành có màu xanh xen kẽ với đôi vạch màu nâu ( bánh tẻ), lá to, có từ 2 -3 mầm ngủ. Giữ trong bẹ chuối tươi hoặc giẻ ẩm để đem đến vườn ươm.
Dùng kéo cắt cành, cắt ngọn gốc ghép ở vị trí cách mặt đất 30-45cm để dưới vết cắt có nhiều lá bánh tẻ. Sau đó tay trái giữ gốc ghép, tay phải dùng dao cắt vát một đoạn dài 1,5-2cm. Lấy một đoạn cành có 2-3 mầm ngủ dùng dao cắt vát đầu gốc ghép tượng tầng của gốc và cành chống khít với nhau. Muốn vậy vết cắt phải nhẵn, phẳng và đường kính của gốc ghép và cành ghép phải tương đương.
Sau khi buộc chặt bằng dây nilông mảnh và quấn kín vết ghép và đầu cành ghép lại. Buộc càng chắt càng tốt. Có thể cắt gốc ghép và cành ghép thành hình lưỡi gà giống nhau để gài cành ghép cho chắc.
Nếu trong thời gian tiến hành ghép mà đất hạn thì tưới nước và sau ghép 3 ngày phải tưới nước cho vườn gốc ghép. Sau ghép 30-35 ngày có thể mở dây buộc kiểm tra tỷ lệ cây sống. Ghép theo hình thức này, cây con rất chóng bật mầm.
Có thể ghép cành theo nhiều cách khác nhau như ghép nêm, ghép dưới vỏ, ghép chẻ bên ( áp dụng khi gốc ghép có đường kính lớn).Ghép dưới vỏ
2. Ghép mắt:
Mắt ghép là chồi non nhú lên trên nách lá.
Cành lấy mắt ghép là những cành " bánh tẻ", đường kính gốc cành từ 6- 10 mm tùy mùa ghép và tùy theo giống loài. Mỗi cành có từ 6-8 mầm ngủ ở các nách lá to. Chú ý chọn những cành ngoài bìa tán, không có sâu bệnh và ở các cấp cành cao. Mỗi cành có từ 6-8 mầm ngủ ở các nách lá to. Vệ sinh chăm sóc và chuẩn bị gốc ghép như ở phương pháp ghép đoạn cành.
Có 2 phương pháp ghép mắt chủ yếu là: ghép chữ T và ghép cửa sổ.
a. Ghép chữ T:
Thường áp dụng cho những cây non, vỏ mỏng, gốc ghép phải đang lên nhựa mới thực hiện được.
Mở miệng gốc ghép như sau: Dùng dao ghép rạch một đường ngang 1cm cách mặt đất từ 10-20cm. Sau đó từ điểm giữa rạch một đường vuông góc với đường rạch trên dài 2 cm làm thành hình chữ T; dùng mũi dao tách vỏ theo chiều dọc vết ghép. Cắt mắt ghép theo hình 23a: mắt có kèm theo cuống lá, dài 1,5-2cm, có một lớp gỗ rất mỏng ở phía trong. Lát cắt phải thật : ngọt" tránh giật nát tế bào ở phía trong. Tay phải cầm cuống lá gài mắt ghép vào khe dọc chữ T đã mở, đẩy nhẹ cuống lá xuống. Dùng nilông mỏng và bền buộc chặt và kín vết ghép lại. Buộc càng chặt càng tốt.1: lấy mắt ghép - 2: tách vỏ hình chữ T trên gốc ghép - 3: đặt mắt ghép vào gốc ghépTùy theo mùa vụ và giống loài cây mà sau ghép 15-20 ngày có thể mở dây buộc, kiểm tra sức sống của mắt ghép. Nếu mắt ghép xanh, cuống lá vàng và rụng đi là chắc sống. Từ 7-10 ngày sau khi mở dây buộc có thể cắt ngọn gốc ghép.
- 4: Quần lại bằng dây nilon - 5: kết quả sau khi mắt ghép phát triển tốt
b. Ghép cửa sổ:
Thường áp dụng đối với những cây to, vỏ dày và già.
Dùng dao ghép mở "cửa sổ" trên thân gốc ghép, cách mặt đất từ 10-20cm. Nếu đất ẩm thì mở cửa sổ cao, đất khô cần ghép thấp hơn. Kích thước miệng ghép " cửa sổ" 1 x 2 cm. Bóc một miếng vỏ trên cành ghép đã mở. Đặt mắt ghép vào " cửa sổ" đã mở của gốc ghép, đậy cửa sổ lại và quấn dây nilông mỏng cho thật chặt. Trong vài ngày dầu không nên tưới vì có thể làm úng và hỏng mắt ghép. Sau ghép 15-20 ngày có thể mở dây buộc và cắt miếng vỏ đậy ngoài của gốc ghép, nếu có nhựa hàn kín, chứng tỏ việc ghép dã thành công. Cắt ngọn gốc ghép cách vết ghép 2cm và nghiêng một góc 450 về phía ngược chiều với mắt ghép. Ghép cửa sổ là một trong những phương pháp ghép có tỷ lệ sống cao nhất.
1: Cắt vỏ trên gốc ghép - 2: Lấy mắt ghép - 3: Đặt mắt ghép vào gốc ghép
- 4: Quấn chặt lại bằng dây nilon (chừa đỉnh sinh trưởng của mắt ghép)
Có nhiều phương pháp uốn cành. Cách thức cổ truyền Trung Quốc là uốn cành bằng dây cọ (loại cây họ cau dừa), hiện nay vẫn còn được áp dụng. Nhưng hiện nay người ta thích dùng dây kẽm hơn. Hầu hết người yêu bonsai đều uốn cành bằng dây kẽm, vì nhanh chóng và tiện lợi hơn.
Có nhiều phương pháp uốn cành. Cách thức cổ truyền Trung Quốc là uốn cành bằng dây cọ (loại cây họ cau dừa), hiện nay vẫn còn được áp dụng. Nhưng hiện nay người ta thích dùng dây kẽm hơn. Hầu hết người yêu bonsai đều uốn cành bằng dây kẽm, vì nhanh chóng và tiện lợi hơn.
Trước khi uốn, ta tỉa bớt lá, cắt bỏ những cành quá sát nhau gây khó khăn trong việc tạo dáng cho cây. Trong cấu trúc bonsai, nên tránh những cành song song, tỏa đều, gối lên nhau, uốn về phía sau, trước chéo, đối xứng và cành rũ. Nên loại bỏ vỉ chúng làm mất vẻ thẩm mỹ của tổng thể cảnh quan.
Tiến trình của việc uốn là trước hết uốn thân chính, rồi đến cành chính, sau là những cành quanh thân cây khởi đi từ gốc lên ngọn, cành lớn trước, cành nhỏ sau. Để quấn thân cây bằng dây kẽm, ta cắm một đẩu dây kẽm sâu trong đất của mâm. Không quấn quá chặt hay quá lỏng và đường quấn chéo phải hình thành những góc 450 với trục thẳng đứng của cây.
Sau khi quấn xong, ta uốn cành bằng cách xoắn thật nhẹ nhàng theo hướng quấn dây kẽm để dây kẽm luôn luôn được giữ chặt vào vỏ cây. Những loại cây sớm rụng lá thì thường mau tăng trưởng, do đó, có thể tháo dây kẽm sau ba, bốn tháng.
Còn đối với thông, bách thì phải hơn một năm. Những cây hay cành lớn thì thời gian sẽ lâu hơn. Nếu cây hay cành trở lại hình dáng ban đầu sau khi ta tháo bỏ dây kẽm, hãy quấn lại một lần nữa và buộc chặt. Vì vỏ cây thích và lựu hơi mỏng, ta cần bọc dây kẽm bằng một lớp giấy để không làm đau cây đồng thời ngăn cản sức nóng mặt trời truyền vào dây kẽm, làm hỏng cây. Phải để ý tháo bỏ dây kẽm đúng lúc, nếu không, dây kẽm sẽ ăn ngập sâu vào trong vỏ làm hại đến sự phát triển của vỏ cây.
Để tạo dáng già nua cho cây, gọt bỏ vỏ một số cành rồi rắc hỗn hợp vôi - lưu huỳnh vào chỗ gọt để chúng đổi sang màu trắng. Trong thiên nhiên, rễ của cây già thường lộ trên đất, bò ngoằn ngoèo. Để tái tạo cảnh kỳ dị đó, rút rễ cây thật nhẹ nhàng hàng năm khi ta trồng lại cây vào mâm hay chậu khác, cây sẽ dần dần phô bày rễ trên mặt đất. Ta uốn rễ vào thời gian còn ít tuổi cũng bằng cách cuốn dây kẽm sẽ mục trong đất, nhưng những rễ ngoằn ngoèo sẽ giữ nguyên hình dáng.
Kỹ thuật uốn cành qua hình ảnh: Có nhiều phương pháp uốn cành. Cách thức cổ truyền Trung Quốc là uốn cành bằng dây cọ (loại cây họ cau dừa), hiện nay vẫn còn được áp dụng. Nhưng hiện nay người ta thích dùng dây kẽm hơn. Hầu hết người yêu bonsai đều uốn cành bằng dây kẽm, vì nhanh chóng và tiện lợi hơn.
Trước khi uốn, ta tỉa bớt lá, cắt bỏ những cành quá sát nhau gây khó khăn trong việc tạo dáng cho cây. Trong cấu trúc bonsai, nên tránh những cành song song, tỏa đều, gối lên nhau, uốn về phía sau, trước chéo, đối xứng và cành rũ. Nên loại bỏ vỉ chúng làm mất vẻ thẩm mỹ của tổng thể cảnh quan.
Sau khi quấn xong, ta uốn cành bằng cách xoắn thật nhẹ nhàng theo hướng quấn dây kẽm để dây kẽm luôn luôn được giữ chặt vào vỏ cây. Những loại cây sớm rụng lá thì thường mau tăng trưởng, do đó, có thể tháo dây kẽm sau ba, bốn tháng. Còn đối với thông, bách thì phải hơn một năm. Những cây hay cành lớn thì thời gian sẽ lâu hơn. Nếu cây hay cành trở lại hình dáng ban đầu sau khi ta tháo bỏ dây kẽm, hãy quấn lại một lần nữa và buộc chặt. Vì vỏ cây thích và lựu hơi mỏng, ta cần bọc dây kẽm bằng một lớp giấy để không làm đau cây đồng thời ngăn cản sức nóng mặt trời truyền vào dây kẽm, làm hỏng cây. Phải để ý tháo bỏ dây kẽm đúng lúc, nếu không, dây kẽm sẽ ăn ngập sâu vào trong vỏ làm hại đến sự phát triển của vỏ cây.
Uốn cành
Thế này phải uốn với song thọ trồng chung vào một chậu, uốn đối xứng thành hai con rồng uốn khúc, giao đầu tranh hạt minh châu nằm ở giữa, là thế kiểng cổ thường thấy uốn với hai cây mai chiếu thủy hay cần thăng kim quýt, ngày nay thường uốn với cùm nụm rô nhanh chóng hơn với nòng bằng kẽm, trồng cây lên tới đâu, gài vô tới đó vài ba năm là thành, thân hai con rồng uốn khúc, đấu đầu lại nhìn quả châu, các nhánh làm chân và mây, đuôi ngẩng lên xòe ra như múa rất đẹp. Nếu uốn với hai cây mai chiêú thủy thì rất quý.Thế này còn nhân ra “sư tử hí cầu” là hai con sư tử giỡn với quả cầu,cũng là hai cây uốn đối xứng với quả cầu rất đẹp. Cũng như thế (loan phụng hòa mình), hai con loan và phượng múa quấn quýt lấy nhau như cặp uyên ương duyên dáng.
Uốn những cành cây to hoặc cành dễ gãy
Việc uốn cành, tạo dáng cho cây bonsai là một việc làm thường xuyên mà bất kỳ người chơi bonsai nào cũng phải thực hiện. Thông thường, tùy vào loại cây mà người làm bonsai sẽ biết nên chọn thời điểm nào để uốn cành. Vì một lý do khách quan hay chủ quan nào mà bạn buộc phải uốn nắn những cành cây dễ gãy hoặc quá to thì đó là một việc làm khó. Đôi khi chỉ vì sơ ý, bạn có thể làm hỏng cả cây bonsai. Dưới đây là một vài gợi ý và phương pháp giúp cho bạn tham khảo khi gặp các trường hợp khó khăn như vậy.
Bạn cần xác định độ chịu đựng được của cành cây vì không kể về đặc điểm mềm dẻo khác nhau của từng loại cây thì bất cứ cây nào cũng vậy, mỗi cành cây đều có một độ cong nhất định tùy vào vị trí và hướng của nó mọc trên thân cây. Nó sẽ không chịu được sức bẻ ngược lại. Đối với những cành này, nếu bạn cố sức uốn theo cách của mình thì cần phải làm thật chậm, hoặc nếu cảm thấy không đủ kiên nhẫn thì bạn nên nghĩ đến một phương án khác để xử lý nó chứ tuyệt đối không được vội vàng mà “sôi hỏng bỏng không”.
Theo kinh nghiệm và kiến thức về các loại cây của bạn mà bạn biết rằng mỗi loại cây có độ mềm dẻo khác nhau, do đó tùy vào loại cây mà bạn chọn cách thức nhất định để uốn và xác định mức độ tác động. Nếu bạn vẫn còn băn khoăn không biết độ uốn của cành cây như thế nào thì trước tiên hãy uốn ở một mức độ nào đó đã, rồi để cho cây quen dần, ít hôm sau bạn lại uốn tiếp.
Sử dụng dây chằng xoắn để uốn các cành to và khó uốn vì phương pháp cuốn dây đối với những trường hợp này gần như không thể thực hiện được. Dây chằng xoắn thường được sử dụng là loại dây đồng mảnh có đường kính từ 1-1,5mm. Bạn có thể buộc đầu kia của dây chằng vào các điểm neo khác nhau, chẳng hạn như một cành cây khác, hoặc một nhánh cây gãy, hay là cái lỗ bên hông chậu, hoặc cũng có thể buộc vào một sợi rễ to nào đó, hay thậm chí vào một cái móc, cái đinh vít được đóng vào thân cây. Điều lưu ý đầu tiên khi sử dụng dây chằng để uốn cành là để ý đến phần đệm. Sợi dây mảnh sẽ cứa đứt thân cành nếu bạn không đệm vào đó 1 miếng cao su.
Bạn dùng một thanh kim loại chắn ngay điểm giữa để xoắn dây. (Ở đây để hình được rõ, chúng tôi không thể hiện phần đệm, nhưng bạn vẫn phải luôn chú ý đến vấn đề đó). Lợi thế của biện pháp này là hai phần dây ở hai bên xoắn vào nhau, do đó đoạn dây ngắn đi, và kéo các cành cây lại với nhau với một lực rất mạnh. Nó đặc biệt hữu ích khi bạn dùng để uốn những cành cây cực kì “khó nắn”, tốt hơn nhiều so với cách dùng tay. Hơn nữa, đối với những cành cây giòn hoặc có nguy cơ dễ bị nứt, bị gãy, dây chằng xoắn có thể giúp giữ được chúng trong vòng nhiều tuần, giảm nguy cơ làm hỏng cành cây.
Ngoài phương pháp sử dụng dây chằng xoắn, hiện nay trên thị trường có 1 số dụng cụ uốn cành chuyên dụng, tùy trường hợp, bạn có thể sử dụng 1 trong những công cụ sau:
Sử dụng nẹp uốn: Nguyên tắc uốn của dụng cụ này giống như phương pháp dùng dây chằng xoắn, chỉ khác ở chỗ thay vì kéo cành cây cần uốn và điểm neo lại với nhau bằng cách xoắn sợi dây chằng, thì bạn dùng 1 thanh kim loại để siết chặt 2 đầu của nẹp uốn lại.
Nẹp uốn có ưu điểm là (nếu đủ dài), nó có thể kéo được cành cây nhiều hơn so với khoảng cách giới hạn mà biện pháp dây chằng xoắn mang lại. Tuy nhiên, nếu dùng trong khoảng không gian chật hẹp thì hơi bất tiện, và thậm chí không thể áp dụng được cách làm này.
Khóa uốn cành là một loại dụng cụ bằng kim loại có hai răng giúp kẹp chặt cành cây, cho phép người dùng có thể tác động mạnh hơn đến cành, uốn chúng vào đúng vị trí mà mình mong muốn (sau đó chúng ta sẽ buộc dây chằng vào vị trí đó).
Nẹp ba chân cũng là một dụng cụ để uốn các cành cứng. Với hai chân bên ngoài được móc vào cành, chân chính giữa từ từ (bằng cách điều khiển mức ren) sẽ uốn cong cành cây. Tuy nhiên dụng cụ uốn này ít được ưa chuộng vì nó rất dễ làm thương tổn đến thân cây, ngay cả khi đã dùng miếng lót cao su. Thêm nữa, những cành cây khả dĩ dùng “nẹp ba chân” được thì cũng có thể dùng dây quấn, dây chằng là những phương pháp thông dụng hơn.
Những kỹ thuật mà chúng tôi đã nêu ở phần 1 của loạt bài viết này giúp tăng thêm khả năng uốn được những cành cây to, tuy vậy, nếu cành cây quá to hoặc quá giòn thì cũng không thể nắn chúng theo vị trí mà mình mong muốn được, mà trước tiên bạn phải làm yếu cấu trúc của nó đã, việc này sẽ hỗ trợ cho các dây chằng hay dây quấn hoạt động được tốt hơn. Phần 2 này sẽ đề cập đến kỹ thuật tạo một mấu hình chữ V trên cành cây.
Nguyên tắc cơ bản để làm yếu cành cây trước khi uốn
Cũng giống như thân cây, cành cây chứa những lớp tế bào sống (nằm ngay dưới vỏ cây) bao quanh phần lõi gỗ “chết” bên trong. Nhiệm vụ của phần lõi này là giữ sức và cấu trúc của cây.
Cấu trúc này hỗ trợ các tế bào sống, giữ cho tán lá nằm đúng vị trí và đủ sức nâng đỡ sao cho cành cây không bị ngã đổ ngay cả khi bị tuyết phủ đầy hay bị những cơn gió vùi dập.
Phần lõi gồm các tế bào gỗ chết kể trên chính là phần mà chúng ta cần phải tác động đi khi uốn cây. Chúng ta cũng có thể làm yếu hay lấy đi phần lõi gỗ này để làm cho các phần tế bào sống xung quanh yếu đi, và rồi cả cành cây cũng thế.
Có nhiều kỹ thuật làm yếu cành để uốn cây, đó là những kỹ thuật “cao cấp” và chỉ những người nào chăm sóc được cây thật tỉ mỉ và có kinh nghiệm mới có thể thực hành được, vì nó cũng có mặt nguy hiểm và có thể dẫn đến chết cành nếu không được chăm tốt.
“Khắc mấu hình chữ V”, “khoét lỗ”, “chẻ cành”, và “tạo rãnh” phải được thực hiện trên những thân cây khỏe mạnh và trên những cành cây sung sức nhất để nó có thể liền lại vết thương và phục hồi sức sau chấn thương. Mặt trái của phương pháp này là, có thể vết thương quá lớn, cây không lành lại nổi, đối với những vết thương như thế, bạn không nên tạo phía trước của cây, thậm chí bạn có thể “ngụy trang” sao cho nó giống hình dạng gỗ mục tự nhiên như “uro” (vết lõm hình lòng chảo) hay “shari” (những đoạn lõi gỗ tự nhiên thường thấy trên các loại cây có quả hình nón như cây thông và cây tùng cối).
Tính toán thời điểm thích hợp để uốn cây
Một số người đam mê nghệ thuật bonsai cho rằng nên thực hiện những tác động mạnh lên cây vào mùa đông, khi cây đang ngủ đông, để nhằm mục đích “lừa” chúng, thực chất đó là những ý tưởng sai lầm, và phần nào lệch lạc.
Nếu thực hiện vào lúc chớm giữa đông, thời kỳ ngủ đông của cây, thì cây sẽ không thể liền vết thương được cho đến khi nó trở lại hoạt động bình thường vào vài tuần hay vài tháng sau đó. Như vậy sẽ làm cho các vết thương cứ bị phơi trần ra và trầm trọng thêm trong một khoảng thời gian quá dài. Do vậy, bạn nên thực hiện những kỹ thuật này vào lúc cây đang phát triển thuận lợi và những nguy hại do thời tiết băng giá gây ra cũng được giảm xuống mức thấp nhất.
Đối với hầu hết các loài cây thì hoạch định thời điểm thích hợp nhất là vào khoảng cuối hè, hoặc đầu tháng 8, vì ít ra từ lúc đó vẫn còn khoảng 6 tuần nữa thì thời tiết đông giá mới thực sự bắt đầu.
Vào giữa mùa hè, cây bắt đầu ra lá và chồi non mới, đây là khoảng thời gian phát triển, là lúc cây tràn trề sinh lực nhất. Tiến hành những kỹ thuật trên vào thời điểm từ giữa đến cuối hè sẽ giúp cây phục hồi nhanh nhất, không những giảm thiểu được nguy cơ bị sâu mọt ăn hết chồi non hay bị nhiễm bệnh mà còn không cản trở quá trình phát triển của cây.
Đối với những loài cây có nhựa, có quả hình nón như cây thông hay cây gỗ vân sam, thời điểm thích hợp nhất để uốn cây là vào cuối hè, khi lượng nhựa lưu thông giảm đi. Còn đối với những loài sớm rụng lá, có khả năng sẽ chảy nhựa nhiều, bạn không nên uốn vào đầu hay giữa mùa xuân trước khi cây rụng lá và mọc chồi non.
Tốt hơn hết, luôn dùng dây đồng và/hoặc dây chằng để uốn trước khi sử dụng những kỹ thuật này
Kỹ thuật khắc hình chữ V
Khắc hình chữ V đơn giản chỉ là cắt ngang bề rộng của thân cây, rồi uốn nó theo vị trí mà mình mong muốn. Đây là một phương pháp uốn nhanh và tác động trực tiếp vào chỗ cần uốn, tuy nhiên, nó có thể gây ra vết chai sần hay phồng rộp ở ngay chỗ khắc chữ V.
Có thể dùng phương pháp này cho các loài cây sớm rụng lá, hay cây lá rộng, vì dòng nhựa lưu thông của nó không quá chặt chẽ liên tục như các loài cây có quả hình nón (nếu dòng nhựa chạy đến các nhành cây thứ cấp và/ hoặc các tán lá bị đứt giữa chừng, thì những chồi hay lá đang phát triển sẽ bị và có nguy cơ bị sâu mọt phá hoại).
Bạn phải quấn dây hay buộc dây chằng vào cành được uốn để giữ cho cây ở đúng vị trí trong khoảng thời gian nó hồi phục và tạo ra vết chai sần.
Nên bôi một lớp dầu bôi trơn xung quanh lớp gỗ thượng tầng bị lộ ra đối với những cây thuộc họ có quả hình nón, hoặc dùng bột hồ bôi lên vết cắt cho các loài sớm rụng lá.
Hai vết cắt hình chữ V được tạo ra ở quãng chia 2/3 chiều dài cành cây được uốn. Nếu vết cắt không đủ sâu thì chỗ uốn sẽ không được gọn gàng và suôn sẻ. Để tạo ra vết cắt hình chữ V, bạn dùng cây cưa mỏng và nên tạo thành hình tam giác để khi uốn, hai mặt bên của vết cắt sẽ gặp nhau khi chúng tạo thành vết chai sần, từ đó vết cắt sẽ ghép lại vào nhau.
Phương pháp này cũng rất hữu dụng khi dùng để chỉnh lại góc nơi cành cây bị lìa khỏi thân cây. Đối với trường hợp này, chỉ dùng dây không thì có thể khó mà chỉnh được.
Có thể tạo vết cắt ở cuối cành, sau đó dùng dây quấn hay dây chằng để kéo cành hướng xuống. Hai cạnh của vết cắt bị kéo sát vào nhau và cuối cùng là liền lại với nhau.
Nhiều người say mê bonsai thích tạo vết cắt ở phía trên, thay vì dưới chỗ cành giao nhau với thân cây. Cách này sẽ làm vết cắt mở ra và không bị nhìn thấy cho đến khi vết cắt liền sẹo và lấp đầy được chỗ khuyết.
Về cơ bản thì cả hai cách đều tốt và nên được dùng phù hợp với loài cây được uốn; một số loài hình thành sẹo nhanh để lấp đầy chỗ trống của vết cắt hình chữ V, với các loài này thì nên dùng cách tạo vết cắt ở phía bên dưới, cuối cành.
Một ví dụ về phương pháp tạo vết cắt hình chữ V
Có những cành cây to quá, và rất dễ gãy, chúng ta không thể uốn theo vị trí mong muốn, vì vậy việc trước tiên là phải làm yếu cấu trúc của nó, rồi sau đó dùng dây quấn hay dây chằng để uốn. Sau đây là một số kỹ thuật “tạo rãnh” “khoét lỗ”, “và xẻ cành”...
Tạo rãnh
Khoét lỗ và tạo rãnh là việc lấy đi phần gỗ trong giữa thân của cành cây mà bạn muốn uốn. Đó có thể là khoét lấy gỗ theo một đường rãnh chạy dọc cành cây, hoặc là tạo ra một cái lỗ để có thể tập trung lực uốn mà không phải chiếm nhiều diện tích trên cành cây.
Trên đây là hình cây xô thơm (loại này hiếm khi được trồng làm bonsai, nó cũng gần giống như cây hoa oải hương và cây hương thảo). Gỗ của loài cây xô này rất giòn, chiếc cành dài 25cm, đường kính 1 inch này mọc quá thẳng, nó đã từng bị gọi là cái cành “trêu ngươi”, vì chĩa thẳng vào hướng mắt nhìn của người xem.
Nếu uốn mà chưa tạo rãnh cho nó, cành cây có thể bị gãy. Do đó, người ta tạo một đường rãnh, hay rạch một khía sâu vào thân của cành cây để làm cho nó mỏng hơn, từ đó sẽ dễ uốn hơn. Như các bạn đã thấy trong hình, sau khi tạo rãnh chúng ta có thể quấn dây và uốn cành được.
Nhưng bạn cũng nên để ý vết thẹo của nó. Trong trường hợp đặc biệt này, cái rãnh trên cành cây có thể không lành lại được, và hiện rõ ra bên ngoài. Tuy nhiên, cành cây này cũng có nhiều vết tích của kỹ thuật “lột vỏ” và “làm chết” rồi, nên nó rãnh này có thể hòa hợp với toàn cảnh nhìn chung của cành cây. Bạn có thể thay thế chỗ rạch rãnh xuống phía bên dưới cành để ít ra nó không được nhìn thấy trực diện từ phía bên ngoài.
Khoét lỗ
Đối với cành cây táo gai trong hình trên, yêu cầu đưa ra là phải làm yếu cấu trúc của đoạn cành dài và thẳng đuột của nó, sau đó vít đầu cành xuống. Vì đây là cành cụt, do đó ta tránh không nên dùng biện pháp uốn mà phải tạo ra một vết thương dài (như kỹ thuật tạo rãnh), thay vào đó, ta tạo ra một cái lỗ trên cành cây.
Để che đi vết thương sau khi uốn, người ta tạo một cái lỗ ở phía sau cành cây bằng cách dùng một chiếc máy quay với mũi khoan bào soi nhỏ. Bạn càng lấy được nhiều gỗ bên trong ra càng tốt, miễn là không làm tổn thương đến lớp gỗ thượng tầng là được.
Sau khi khoan lỗ xong thì có thể dễ dàng uốn được cành cây xuống theo đúng vị trí mong muốn với hai sợi dây chằng.
Sau khi đã uốn được cành vào đúng vị trí, ta trám đầy lỗ bằng rêu nước rồi lấy dây nhựa đen băng chặt lại. Cách làm này sẽ giúp bảo vệ được vết thương khi mùa đông đến.
Xẻ cành
Bản chất của kỹ thuật này là việc xẻ đôi một cành cây to để tao thành 2 nửa mỏng hơn, dễ uốn hơn. Tuy nhiên, những người chơi bonsai thường ít áp dụng kỹ thuật này vì hiệu ứng thẩm mỹ của nó. Sau khi viết thương đã liền lại trên cành cây luôn có xu hướng tạo thành vệt chai sần không đẹp mắt và thiếu tự nhiên.
Đây là một trường hợp thực tế của một cành cây táo gai, nó đã được dùng cưa xẻ làm đôi và sẵn sàng chờ uốn.
Tuy nhiên, kỹ thuật xẻ cành cũng khá quan trọng trong nghệ thuật bonsai. Nó rất hữu dụng khi bạn muốn uốn phần sống của một cành hay thân cây khác đi so với cấu trúc của phần lõi gỗ chết bên trong bằng cách dùng cưa hay dụng cụ xẻ cành.
Những hình ảnh trên đây cho thấy áp dụng kỹ thuật xẻ cành, người ta đã tách được thân cây tùng cối ra xa phần gỗ chết, điều này là không thể làm được nếu chỉ dùng acc1 dụng cụ uốn, nắn thông thường.
Lưu ý thêm
Những kỹ thuật đã được mô tả trong loạt bài viết về chủ đề này, như: tách chữ V, khoét lỗ, tạo rãnh và xẻ cành..., tất cả đều có nguy cơ gây chết cành to, hoặc thậm chí làm chết cả cây nếu không được thực hiện đúng và có những biện pháp chăm sóc thích hợp sau khi thực hiện. Đây có thể gọi là những kỹ thuật cao cấp, và chỉ nên làm đối với các cây và cành đang khỏe mạnh, sung sức để chúng có thể chịu được những tổn thương nặng.
Hãy bảo vệ vết thương bằng cách mà bạn vẫn hay dùng, hoặc có thể bọc vết thương lại (hiện đang có những tranh cãi về việc liệu có nên bọc hết tất cả hay chỉ vài vết thương thôi). Theo kinh nghiệm của một số người chơi bonsai thì có thể dùng dầu bôi đặc chiết xuất từ dầu hỏa, hoặc dùng dầu hôi để bôi vào những vết thương hở ở lớp gỗ thượng tầng.
Khi bạn khoét lỗ hay tạo rãnh, nhớ chỉ lấy đi phần gỗ vừa đủ để uốn mà không cần phải xẻ cành, hoặc nếu không thì bạn có thể lấy đi phần vỏ cây hay lớp vỏ thượng tầng xung quanh, nhưng nhớ là chừa gỗ lại để đảm bảo cành cây vẫn đủ khỏe để đỡ lấy sức nặng của nó. Hãy kiểm tra độ dẻo của cây song song với quá trình khoét lấy gỗ. Nếu trong quá trình lấy gỗ từ giữa thân cây mà bạn thấy phần gỗ thượng tầng màu xanh thì có nghĩa là bạn đã khoan vào quá sâu rồi đấy. Bạn nên bịt kín chỗ đó lại, rồi tiến hành lấy gỗ ở chỗ khác.
Thời điểm thích hợp nhất để thực hiện những kỹ thuật đã mô tả ở loạt bài viết này là vào cuối hè, hoặc đầu tháng 8 khi cái nóng của mùa hè đã đi hết, và như vậy thì sẽ có nhiều thời gian hơn cho vết thương bắt đầu liền lại trước khi mùa đông băng giá đến. Hãy làm trong thời gian cây còn hoạt động (còn nhiều lá), cây sẽ có thể ghi nhận ngay lập tức các tác động và có phản ứng kịp thời.
Hãy cẩn thận; nếu bạn vẫn còn nghi ngại gì thì hãy tạm thời tạo rãnh, khoét lỗ hay xẻ cành trước, rồi vài tuần hay vài tháng sau hãy tiến hành uốn cây.
Cuối cùng, bạn phải chắc chắn là thật cần thiết phải làm thì hãy làm. Và nếu được thì luôn uốn cây bằng dây quấn, dây chằng hay các loại dây khác mà ít bắt cây phải chịu đựng thêm.
Một số loài cây có sự phát triển cành dẻo và dễ uốn cành dày 1cm, tạo điều kiện cho ta dùng dây kim loại mềm và đàn hồi (dây đồng) để đưa hướng của cành đó đúng như ý muốn. Ta có thể thực hiện bằng cách sử dụng các kỹ thuật cuốn dây đơn giản..
Tuy nhiên, nó cũng là cách chứa mối nguy cơ hỏng cành, hư hại có thể xảy ra cho chi nhánh và vỏ cây do dây đồng gây ra.
Đây là một cây sồi , cành của nó khá dễ uốn, nhưng nó có vỏ mỏng dễ bị tróc bởi dây đồng. Tương tự như cây sồi, nhất là cây lá kim: thông, bách xù ...và cả sanh, si, đa có cành dễ uốn có thể sử dụng phương pháp này.
Sồi - loài cây sớm rụng lá, sinh sống trong khu vực từ các vĩ độ hàn đới tới khu vực nhiệt đới, sức tăng trưởng khá tốt, cành khá dẻo cho phép uốn với góc độ lớn (nhưng quá lớn sẽ bị gãy).
Cành phía trước ảnh to khoảng 1cm đường kính, nó mọc hướng về phía trước thay vì hướng về bên phải. Vì thế ta cần uốn nó hướng về bên phải. Các mũi tên đỏ trong hình là hướng cần uốn tới vị trí mới.
Để bảo vệ vỏ cành ta cuốn chặt cành bởi dây mềm, kín nhất phần sẽ bị uốn: sử dụng dây bẹ, ngâm dây trong nước 30 phút, sau đó cuốn kín, nhiều lớp xung quanh cành quá điểm sẽ uốn cho tới đầu cành. Nên sử dụng dây dài thay cho việc gồm nhiều đoạn dây ngắn. Cuốn xong, ta làm ướt toàn bộ, như thế sẽ dễ thao tác uốn. Tiếp ta dùng dây đồng lấy thân hoặc cành to hơn làm điểm bắt đầu, cuốn chặt ra phía cành sẽ uốn, như thế để đảm bảo cành được bảo vệ do lực căng khi uốn bị phân tán ra cả cành thay vi tại điểm uốn.
Trước hết, ta dùng 1 tay nắm chặt gốc điểm uốn để cố định và làm điểm tựa, tay kia cầm phần cành cách điểm uốn 1 chút, uốn từ từ sang các hướng khác nhau từ góc độ nhỏ, tăng dần góc tạo độ dẻo tại điểm uốn. Hãy lắng nghe âm thanh phát ra từ điểm uốn, đảm bảo xem có thể uốn tiếp vối góc độ lớn hơn không. Nếu có bất kỳ sự nghi ngờ, để an toàn ta nên dừng và định vị trí tại đó. Nếu chưa đúng vị trí ý muốn, có thể để sau 1 thời gian khi cành đã định vị lần 1, ta tiếp tục uốn gò lần 2...
Để định vị cành ở vị trí mới, ta sử dụng chính độ cứng của dây đồng hoặc dùng dây căng kéo, cọc ghim cành định vị.
- Vũ Tuấn dịch từ bonsai4me.com
No comments:
Post a Comment