Lầu Hoàng Hạc (黄鹤楼) vốn là một đài quan sát quân sự, được xây trên vực đá Hoàng Hạc của núi Xà Sơn bên bờ sông Dương Tử, từ thời Tam Quốc, ở bờ nam Trường Giang, thuộc địa phận nước Ngô (thuộc thành phố Vũ Hán
tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày nay). Đài quan sát này được xem là một trong bốn tứ đại danh tháp của Trung Quốc và là ngôi lầu nổi tiếng được các thi nhân ca tụng. Tháp hiện nay là một công trình được xây lại bằng vật liệu hiện đại và có một cầu thang máy.Hoàng Hạc lâu nổi tiếng thông qua bài thơ Hoàng Hạc lâu của nhà thơ Thôi Hiệu (崔顥), một thi nhân thời nhà Đường.Lầu Hoàng Hạc đầu tiên được xây dựng ở trên ghềnh đá Hoàng Hạc thuộc huyện Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc vào năm Hoàng Vũ thứ 2 đời nhà Ngô thời Tam Quốc (223 Tây Lịch). Đến nay suốt 1762 năm đã có 12 lần bị thiêu hủy, 12 lần xây cất lại, mỗi lần lại cao hơn và có nhiều tầng hơn.
Tên gọi " Lầu Hoàng Hạc " bắt nguồn từ truyền thuyết dân gian. Tương truyền Phí Văn Vi, một tu sĩ đắc đạo thành tiên thường cỡi hạc vàng ngao du sông thủy. Một hôm, tiên và hạc bay ngang Vũ Hán và dừng chân lại trên “Đồi Rắn” để nhìn ngắm, một bên là cảnh đẹp hùng vĩ của Trường Giang và bên kia là Ngũ Hồ trong khói sương diễm lệ. Người đời sau đã từ nơi tiên cưỡi hạc vàng bay đi xây lên một tháp lầu đặt tên là Hoàng Hạc Lâu, tồn tại được 50 năm thì nước Ngô bị diệt vong. Từ đấy không có ý nghĩa quân sự nữa. Nhưng, do được xây ở nơi phong cảnh hùng vĩ, lầu Hoàng Hạc dần dần trở thành điểm tham quan của tao nhân, mặc khách và ngày càng nổi tiếng, là biểu tượng, niềm tự hào của người dân Vũ Hán.
Lầu Hoàng Hạc nguyên thuỷ là một kiến trúc bằng gỗ chạm trổ gồm ba tầng, ở trên đỉnh bằng đồng. Trải qua nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc, chịu biết bao cuộc chiến tranh huỷ diệt; rồi lại được dựng lên, sau nhiều lần trùng tu thì cho đến nay lâu Hoàng Hạc được tái sinh trở lại với sự kết tinh nhuần nhuyễn những phong cách độc đáo của Hoàng Hạc Lâu của các triều đại trước, lộng lẫy hơn nhiều gồm 5 tầng với chiều cáo 51.4 mét, ngói vàng, trụ đỏ. Các tầng mái hiên được uốn vênh lên như đôi cánh hạc. Lầu có thể chia ra làm 3 phần chính. Phần thứ nhất bao gồm cách thiết kế bên trong của tầng 1, tầng này cao hơn 10m và phần trang trí bên trong được thiết kế cho người xem hiểu ngay được về sự tích của Hoàng Hạc Lâu.
Phần hai bao gồm các tầng từ tầng 2 cho đến tầng 4. Ðây là các tầng gìn giữ lại những bài thơ, những bài từ bất tử nói về Hoàng Hạc Lâu, những bức họa tranh nói về các sự kiện lịch sử từ thời tam quốc, những danh nhân của đất Sở ngày nào như Khuất Nguyên, những thi tài Lý Bạch, Thôi Hiệu, danh tướng Tống Nhạc Phi, những kiến trúc cũ của Hoàng Hạc Lâu đời Ðường, đời Nguyên, Minh, Thanh..v..v. được trưng bày tại đây để mọi người thưởng ngoạn. Phần ba bao gồm tầng 5 cũng là tầng cao nhất của Lầu. Ðứng ở đây, người ta có thể ngắm cảnh trời sông bao la bát ngát, nhìn dòng sông Trường Giang và Hán Thủy hợp lưu lại thành hình một chữ “Nhân” trong Hán tự .
Theo tài liệu văn học Trung Quốc thì có khoảng 300 bài thơ tả cảnh lầu Hoàng Hạc, nhưng chỉ có bài thơ của Thôi Hiệu đời Đường là xuất sắc nhất, phổ thông nhất, có giá trị nghệ thuật vượt không gian và thời gian, được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Tương truyền, khi “Thánh thi” Lý Bạch đến lầu Hoàng Hạc du ngoạn, định đề thơ, nhưng đọc xong thơ Thôi Hiệu đã đề trước đó, ông đành nghiêng mình gác bút, ngửa mặt lên trời mà than rằng :“Nhãn tiền hữu cảnh đạo vô tắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu” (Cảnh đẹp nhường kia sao khó viết, Trên đầu Thôi Hiệu đã đề thơ). Để ghi nhớ giai thoại văn học “Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch gác bút” thú vị này, ngày nay ở phía Nam lầu Hoàng Hạc, người ta xây dựng “Đình gác bút”, làm điểm tham quan, dừng chân cho du khách.
Còn với các thi sĩ Việt Nam, khi đi sứ sang nhà Thanh, Nguyễn Du cũng qua lầu Hoàng Hạc và viết bài Hoàng Hạc Lâu:
黃鶴樓 Hoàng Hạc lâu
阮攸 Nguyễn Du
何處神仙經紀時 Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì
猶留仙跡此江楣 Do lưu tiên tích thử giang mi
今來古往盧生夢 Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
鶴去樓空崔顥詩 Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi
軒外煙波空渺渺 Hiên ngoại yên ba không diểu diểu
眼中草樹尚依依 Nhãn trung thảo thụ thượng y y
衷情無限凴誰訴 Trung tình vô hạn bằng thùy tố
明月清風也不知 Minh nguyệt thanh phong dã bất tri
Lầu Hoàng Hạc
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ .
(Quách Tấn dịch)
Có hai giả thuyết tương truyền rằng :
- Ngày xưa có một Tiên Ông tên Phí Văn Vĩ thường cưỡi hạc đi ngao du và đã có lần dừng chân tại lầu nầy.
- Có một Đạo Sĩ uống rượu xong không có tiền trả mới vẽ một con hạc trên vách rồi bảo chủ nhân khi nào có khách thì gọi hạc xuống múa. từ đó quán lúc nào cũng đông khách tới uống rượu xem hạc múa. Ít lâu sau, Đạo Sĩ tới trả tiền rượu và cưỡi hạc đi mất.
Ý nguyên bản
Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi rồi
Lầu hạc vàng còn trơ lại đây.
Hạc vàng một khi đã bay đi, không trở lại nữa
Mây trắng nghìn thu lởn vởn hoài
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán Dương rõ mồn một
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi
Trời tối rồi, đâu là quê hương mình ?
Trên sông, khói tỏa, sóng gợn khiến người sinh buồn!
Bản dịch của Tản Đà
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Người đi cưỡi hạc từ xưa
Đất nầy Hoàng Hạc còn lưu một lầu
Hạc vàng đi mất đã lâu
Ngàn năm mây trắng một màu mênh mông
Hán Dương cây bóng lòng sông
Bãi kia Anh Vũ cỏ trông xanh rì
Chiều hôm lai láng lòng quê
Khói bay sóng vỗ ũ ê nổi sầu
Bản dịch của Trần Trọng San
Người xưa cưỡi hạc bay đi mất
Riêng lầu Hoàng hạc hãy còn đây
Hạc đã một đi không trở lại
Man mác muôn đời mây trắng bay
Hán Dương sông tạnh, cây in thắm
Anh Vũ bờ thơm, cỏ biếc đầy
Chiều tối quê nhà đâu chẳng thấy
Trên sông khói sóng gợi buồn ai !
Bản dịch của Vũ Hoàng Chương
Xưa hạc vàng bay vút bóng người
Đây lầu Hoàng hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc đi đi mãi
Trắng một mầu mây vạn vạn đời
Cây bên Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống đâu quê quán
Đừng dục cơn sầu nữa sóng ơi !
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Người xưa cưỡi hạc đã lên mây
Lầu hạc còn suông với chốn nầy
Một vắng hạc vàng xa lánh mãi
Nghìn năm mây bạc vẩn vơ bay
Vàng gieo bên Hán, vàng cây hứng
Xanh ngát châu Anh, lớp cỏ dầy
Trời tối, quê nhà đâu tá nhỉ
Đầy sông khói sóng gợi niềm tây !
Bản dịch Trần văn Ân
Người xưa cưỡi hạc đi đâu tá
Hoàng Hạc lầu nay vẫn còn đây
Một phút hạc vàng thăm thẳm biệt
Ngàn năm mây trắng lững lờ bay
Hán Dương cây tỏ, sông quang tạnh
Anh Vũ bãi mờ cỏ mướt dầy
Chiều quạnh đâu là hương lý cũ ?
Trên sông khói sóng não lòng này.
Bản dịch Phạm khắc Trí
Xưa hạc chở Tiên về cõi thơ
Để lầu quạnh vắng đứng bơ vơ
Hạc vàng một thuở còn hun hút
Mây trắng nghìn năm vẫn lững lơ
Lồ lộ Hán Dương , cây rờn nắng
Ngạt ngào Anh Vũ, cỏ khoe tơ
Chiều hôm quê cũ phương nào nhỉ ?
Khói sóng trên sông luống thẫn thờ.
Bản dịch Nguyễn Đức Hiển
Lầu xưa Hoàng Hạc là đây
Người xưa hoàng hạc cưỡi bay chưa về
Từ phen hoàng hạc vút đi
Nghìn năm mây trắng lê thê vẫn còn
Hán Dương in bóng cây cồn
Một bờ Anh Vũ mấy bồn cỏ xanh
Bỏ quê nhập cuộc viễn hành
Sầu lên sông nước mênh mông khói chiều.
Bản dịch Lê Phương Nguyên
Người xưa cưỡi hạc vàng bay vút,
Hoàng Hạc lầu không nay vắng tênh
Một thoáng hạc vàng không trở lại,
Ngàn năm mây trắng mãi lênh đênh.
Hán Dương sông lặng, cây lồng lộng
Anh Vũ cồn xanh cỏ rập rình
Chiều muộn quê nhà đâu đó khuất,
Gợi sầu : khói sóng, nước mông mênh.
Bản dịch Nguyên Nhung
Hạc chở Tiên về nơi cõi xa
Nền cũ lầu hoang đứng thẫn thờ
Hạc đi, đi mãi không trở lại
Ngàn năm mây trắng lững lờ qua
Hán Dương bến nước cây im bóng
Ngút ngàn Anh Vũ cỏ chen hoa
Quê nhà biền biệt tìm đâu thấy
Sương khói trường giang mắt lệ nhòa.
Bản dịch của TH.Nguyen:
Người xưa cưỡi hạc chẳng thấy về
Để lầu Hoàng Hạc vắng tư bề
Có phải một đi không trở lại
Mây trắng nghìn năm phủ sơn khê.
Hán Dương cây ủ rũ, sông buồn
Anh Vũ bãi xa rợp cỏ non,
Quê hương khuất bóng nơi đâu tá ?
Khói sóng trên sông quyện vấn vương.
No comments:
Post a Comment